Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014
Võ Phiến - Giã từ (kỳ cuối)
Tới đầu mùa thu năm ấy thì bác
tôi hoàn toàn thành ra một kẻ dớ dẩn. Ngày ngày ăn xong, bác ngồi trầm ngâm gật
gù yên lặng ở một góc nhà không mở miệng. Tối đến, khi đèn điện trước Hoàng
Cung hí viện bật sáng và các ống loa oang oang phát ra vài câu của bài hát mở
đầu là bác tôi đứng dậy, xách gậy ra đi. Có một vài tháng hí viện mở đầu đêm
vui bằng bài “Gạo trắng trăng thanh”, vài tháng sau dĩa hát ấy cũ, lại thay bài
“Chờ em”, kế đó đến bài “Tìm nhau”, rồi một bài hát Tàu v.v... Đối với ông bác
già Đại Cuộc tất cả những bài hát đó đều có giá trị một tiếng kèn hiệu. Nhạc
nổi lên: bác tôi tức thì đứng dậy, quơ lấy chiếc mũ dạ đen đã cũ chụp lên đầu,
ra đường. Người thường mặc áo sơ-mi trắng và quần đen, trông hơi giống một
người chệt già, đi lom khom, run rẩy.
Bác tôi đi thẳng đến Hoàng Cung
hí viện, trèo lên bảy bực cấp, đến ngồi dựa bên một chân cột to tướng, một tay
vẫn nắm cây gậy, một tay rờ rẫm sờ nắn vu vơ hai bên túi áo thăm chừng, kiểm
soát, vài thứ vật dụng lặt vặt. Xong, người hếch mắt trông xuống đường.
Hoàng Cung hí viện là rạp chiếu
bóng của người Tàu. Thành phố chưa có điện, nhưng ở đấy có riêng một máy phát
điện 30 kw nên tha hồ dùng ánh sáng làm quảng cáo. Ngay trên đầu ông bác Đại
Cuộc một hàng chữ Việt bằng ống nê-ông dàn ngang dài suốt mặt tiền của rạp. Lại
một hàng chữ Tàu nằm dọc bằng ống nê-ông, xung quanh viền một mũi tên chỉ ngay
vào rạp, hai chữ đỏ và hai chữ xanh thay nhau tắt sáng. Giăng ngang đường cái
và ở hai bên hí viện có ba tấm băng vải quảng cáo cuốn phim đang chiếu, xung quanh
mép băng vải treo bóng điện ngũ sắc.
Trước mặt hí viện, dựa theo mỗi
trụ cột dựng mỗi tấm bảng vẽ những hình quảng cáo to tướng. Như thế có khi ông
bác già của tôi ngồi bên cạnh hình vẽ một gã tướng cướp đeo băng đạn ngang
hông, quàng ôm ngang cổ con ngựa, tay gã lăm lăm cây súng lục kê lên vai ông
lão Đại Cuộc; có khi bên cạnh người là một hiệp sĩ trung cổ dạng hai chân ra
khoa gươm ngang đầu; cũng có khi là một cô gái chỉ còn mảnh vải che vài chỗ
kín, ngã ngửa ôm ghì một đầu người đàn ông v.v... Nhưng bất luận nhân vật bên
cạnh mình là hạng người thế nào, bác tôi, mặc quần đen, áo trắng, đội mũ dạ
đen, cầm chiếc gậy mây, vẫn một mực nghiêm chỉnh trong thế ngồi lim dim gật gù.
Xung quanh bác tôi: guốc, dép,
giầy khua lộn xộn, vỏ hạt dưa, vỏ quít, giấy kẹo rơi bừa bãi như xác pháo. Trẻ
con giỡn la lóe chóe. Những người đàn bà mặc đồ mỏng đi sát qua mặt bác tôi mà
không hề bao giờ biết rằng như thế có một làn hương thơm phất vào mũi Đại
Cuộc... Trên tất cả cái quang cảnh tưng bừng sặc sỡ ấy tiếng hát oang oang phát
ra không ngớt từ hai chiếc loa đặt trên mái hí viện.
Bác tôi không lắng nghe nhạc,
không ngắm quần áo chật, cánh tay trần, không hít mùi hương thơm, không nhìn xe
hơi loang loáng lướt qua lại dưới ánh đèn. Người ngồi yên trên thềm hí viện,
giữa sự tưng bừng ấy, người không hề chú ý đến cái gì, tất cả các giác quan đều
bỏ ngõ cho sự xâm nhập tự do. Tiếng hát của Lâm Đại, tiếng guốc, tiếng dép, mùi
nước hoa, ánh đèn chói chang, màu hạt dưa, giấy kẹo... tất cả gặp nhau trong ý
thức của ông bác già Đại Cuộc như khách lạ tứ xứ thản nhiên gặp nhau tình cờ ở
một ngã tư đông đảo, không ai phải cất mũ, ngả nón, không có một lời chào hỏi.
Và như thế ông bác già tìm được
sự yên tĩnh.
Vì thực vậy, tối tối bác tôi lần
mò đến đấy chính là để tìm sự yên tĩnh thảnh thơi! Người đến đấy như một ngày
mùa đông con mèo đến nằm phơi mình dưới tia nắng ấm, duỗi hết gân cốt, để thân
mình mềm oặt như tấm giẻ rách, im lặng hưởng một sự thư thái biếng nhác. Bác
tôi tự phơi mình dưới ánh sáng giữa tiếng động và quang cảnh loạn xạ rộn ràng,
để cho những cái đó làm bốc hơi tan biến khỏi đầu óc mình mọi suy tưởng lẩn
quẩn, mọi ký ức vụn vặt, để cho đầu óc rỗng tuếch, bác chỉ còn là cái xác không
hồn lơ mơ hưởng thú xuất thần.
Những lúc ấy bác tôi, ông già bảy
mươi sáu tuổi, tựa hồ như đứa trẻ sơ sinh: người không còn có quá khứ nữa.
Ngồi chơi một lát, ông bác già
buồn buồn nghẻo đầu dựa vào cây cột, há mồm ra ngủ như đứa trẻ, mấy ngón tay
thỉnh thoảng bất giác cựa quậy sờ nắn vu vơ chỗ túi áo, do một thói quen cẩn
thận lẩm cẩm. Tiếng ồn ào không làm trở ngại giấc ngủ ấy, chỉ khi nào một đứa
bé chạy giỡn lao đầu vào bác tôi, người mới giật mình thức giấc.
Đến chín giờ tối, khán giả của
xuất đầu ào ào kéo về, lớp khán giả của xuất thứ hai trong đêm lần lượt vào hết
trong rạp rồi, bác tôi tỉnh giấc, mở mắt ra, thấy trước thềm hí viện vắng vẻ
buồn hiu, người đứng dậy ra về.
Thỉnh thoảng có hôm ông bác già
để ý đến một tờ giấy đỏ xanh in quảng cáo “điện ảnh cố sự” mà một khán giả vứt
bên cạnh. Người tò mò lượm lên, lật bật xếp bỏ vào túi áo. Những tờ giấy ấy,
mỗi lần giặt áo cho ông bác già, người nhà lục túi lấy ra, chọn những tờ còn
tốt, vuốt cho thẳng thớm, đem dán vào những chỗ hở trên các bức vách ván, và
các tấm cửa bằng phên khại. Như thế dần dần khắp bốn phía nhà bác tôi nguời ta trông
thấy toàn những thứ giấy ngũ sắc in hình minh tinh màn bạc với những dòng chữ:
“Đoạn trường nhất khúc, Biểu tận chân tình, Hữu huyết hữu lệ, Ca từ mỹ diệu,
Cảm nhân phế phủ v.v...”
Thoạt mới để ý đến sự ra đi đều
đặn chuyên cần của bác tôi mỗi tối và đến cách trang trí trong nhà, hẳn có kẻ
phải cho rằng người bắt đầu nghiện xi-nê vào lúc tuổi quá thất tuần, tức thị là
một ông lão mà năng khiếu về điện ảnh phát triển có phần chậm trễ muộn màng.
Giữa mùa đông năm Hợi, một độ tôi
không thấy ông bác già ở trước hí viện Hoàng Cung. Hỏi thăm mới hay người lại
đau nữa. Tôi bắt đầu ngờ rằng sự đổi tánh đột ngột của người già có thể là điềm
gỡ thực chăng. Sức khỏe tinh thần của người xuống tới mức quá thấp rồi. Từ một
kẻ hăng hái, ham ăn nói, tha thiết với đại cuộc, người bỗng cảm thấy tất cả sức
nặng của cái quá khứ ngổn ngang vì sự rắc rối của đại cuộc, người lắc đầu nhắm
mắt từ chối hết quá khứ của mình. Do một linh tính may mắn xui khiến, người tìm
theo tiếng loa của hí viện Hoàng Cung lánh hưởng vài năm yên tĩnh.
Nhưng một ông già đã sống ngót
bảy mươi lăm bảy mươi sáu năm có thể ngồi trên chỗ thềm cao bảy bậc cấp của một
hí viện, rũ sạch dĩ vãng, lơ ngơ nhìn xuống cái hoang vắng không tin tưởng của
đời mình mãi sao?
Ông bác già Đại Cuộc lại đau, tôi
e lần này người không qua khỏi. Để gượng bám nổi vào sự sống, người ta cũng cần
đến cái sức khỏe tinh thần.
Loại sức khỏe đó, ông Ba Thê Đồng Thời
hãy còn thừa.
Hồi tháng bảy năm Tuất, chị Toàn
từ bên xứ quê chồng trở về được một lần. Chị mừng rỡ quá sức. Người đàn bà đó
từ bé tới lớn chưa đi đâu xa bỗng nhiên qua sống bên Âu châu gần bốn năm trời:
chị nhớ quê hương, nhớ nhà cửa, nhớ bà con, không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng
lòng nhớ chồng cũ thì chắc là không hề có tăng thêm. Tuy vậy ngày trở về xứ,
trong cái vui mừng ba hoa của kẻ đi xa mới về, chị Toàn đối với vợ chồng ông Ba
Thê như một người con dâu hiếu thảo hiếm có. Bà Ba Thê ngó qua đứa con dâu bây
giờ sang trọng xinh đẹp quá, bà nhẹ nhàng kéo chị lại gần bên mình một cách
thân ái. Bà nắm lấy cánh tay trần của đứa con dâu; bàn tay gầy và lạnh của bà
Ba Thê ôm lỏng cánh tay mơn mởn của chị Toàn rất lâu, vừa tỏ cái ý “tội nghiệp”
cho cuộc tình duyên dở dang ngày trước vừa như thưởng thức một cách vô tình, lơ
đãng, cái sinh lực đẹp đẽ của người con gái.
Không biết chị Toàn xúc động về
điểm nào, mà rồi cả hai mẹ con cùng sụt sùi.
Người ta cho rằng trong chuyến về
xứ ấy chị Toàn đã giúp đỡ vợ chồng ông Ba Thê một món tiền lớn. Tôi tin việc đó
có thật. Ông Ba Thê Đồng Thời còn đủ sức khỏe tinh thần để bày tỏ một hoan hỉ
đúng mức.
Chị Toàn lại ra đi. Lần này chị
hãnh diện và nhẹ nhõm. Một lẽ là vì trông thấy chị về, đẹp đẽ và sang trọng, dư
luận của người quen kẻ biết xung quanh đã ủng hộ chị, không còn coi cái việc gá
duyên với anh lính lê dương rồi bỏ xứ ra đi là điều bất hạnh xấu xa nữa. Một lẽ
khác, vì chị đã phân phát một món tiền khá lớn, bày tỏ lòng hào hiệp rộng rãi
đối với bà con thân thích, và nhất là với vợ chồng ông Ba Thê, cho nên lương
tâm của chị sau khi mục kích sự hoan hỉ lộ trên nét mặt những người này cũng
vui lòng xóa hết mọi bứt rứt ân hận cho chị.
Hôm chị ra đi, ông Ba Thê có hỏi
và ghi cẩn thận địa chỉ của gia đình chồng chị bên nước Áo vào một quyển sổ con
bằng nửa bàn tay, bìa cứng, có hai sợ dây cao-su giằng chữ thập, rồi xếp vào
giữa cái cặp giấy cất dưới đầu giường. Chị Toàn xuất ngoại được nửa tháng, bà
Ba Thê nhỏ nhẹ nhắc chồng viết thư thăm chị, kẻo tội nghiệp. Ông Ba Thê đeo
gương lên, ì ạch viết xong lá thư, lấy sổ, gỡ các sợi dây cao-su ra kêu “tách
tách”, tìm xem địa chỉ, đề phong bì gởi đi. Thư gởi đi thì dày mà hồi âm thưa
thớt lắm. Cho đến cái lần ông Ba Thê bạo tay viết một câu yêu cầu giúp đỡ về
tiền bạc thì chị Toàn mất lặn.
Rồi sau bà Ba Thê có nói với tôi
về sự bặt tin đó. Bà ta thở dài, ngụ ý trách móc phàn nàn. Tôi cũng thở dài:
lại thêm một người nữa trong bọn dứt khoát giã từ quá khứ. Chị Toàn đã trở về
một lần, đã đền ơn đáp nghĩa đầy đủ rồi, chị hóa ra nhẹ tênh tênh. Chị đi lần
thứ hai như quả bóng khinh khí bay bổng lên cao. Ông Ba Thê chỉ giữ một sợi dây
liên lạc mong manh như sợi chỉ mành nhỏ xíu; ông trót nóng nảy bạo tay giật
mạnh sợi chỉ mành đó: dây dứt, quả bóng mất lặn vào trời xanh bát ngát!
Mất một người nữa, nhóm chúng tôi
sa sút thêm, còn lại thỏn mỏn quá, quá khứ của chúng tôi gầy đi nhiều quá!
Trong tình trạng thỏn mỏn gầy gò ấy, ông Ba Thê lần hồi gắng gượng, và cuối
cùng ông ta tìm ra nguồn hứng thú trong cuộc sống mới. Ban đầu ông ngại ngùng,
mang một mặc cảm tội lỗi đối với chính thể mới, cho rằng mình đã ba hoa mồm mép
trước kia quá nhiều, thì bây giờ tốt hơn là mình nên dè dặt. Ông ta vẫn ham
tiếp trục bàn tán về thời sự như nhiều kẻ ham bàn tán về các cuộc đấu quyền
Anh, nhu đạo, đá banh v.v... nhưng đối với các nhân vật trong chính quyền mới
ông Ba Thê đặc biệt cung kính trong cách xưng hô: “ngài thủ tướng”, “ngài tổng
trưởng”, “ngài tỉnh trưởng”, “cụ ty Công Chánh”, “cụ ty Công An” v.v... Vướng
víu vì sự cung kính đó, các cuộc đàm luận của ông Ba Thê mất đi nhiều hứng thú
lắm.
Phải chờ thời gian một đôi năm
trôi qua, ông ta mới dám bạo dạn thưởng thức quyền tự do của mình. Vì ngày nào
cũng nói đến các nhân vật cao cấp, dần dần ông Ba Thê cảm thấy mình nhích tới
quá gần các ông tổng trưởng lúc nào không ngờ; bây giờ trong khi luận bàn thời
sự ông Ba Thê thân mật kêu các vị tổng trưởng, các vị giám đốc là “va”, là
“giã, là “y”. Chẳng hạn ông ta nói:
— A! giám đốc nha Canh Nông hả?
Ông thân sinh ra “va” hồi trước có làm án sát tỉnh này mà. “Va” thông minh có
dòng, tôi biết. “Va” lanh lợi lắm. Nhưng “va” có chị
vợ ghen quá trời... Ha ha... Ghen “te-ríp”!
Hoặc là:
— Luật trừng trị mạo hóa à? Anh tổng trưởng này muốn “chơi” bọn Hoa kiều
làm rượu giả đó mà, tôi biết ý “giã” rồi. Nhưng “giã” không làm gì trị nổi gian
thương đâu. Để rồi coi. “Giã” thiếu kinh nghiệm.
Cứ nghe ông Ba Thê nói, người ta tưởng ông ta có thói quen hay bá cổ vít
vai các ông tổng trưởng trong chính phủ. Kỳ thực không có như thế: nếu những vị
ấy là “se a-mi” của ông ta thực thì việc đầu tiên ông ta làm sẽ là gửi đi một
tấm danh thiếp chứ không phải là xưng hô thân mật.
Ông Ba Thê cứ như vậy, mỗi ngày mỗi bạo dạn và tự do lần lần. Ông ta sỗ
sàng với các nhân vật cao cấp không thấy có gì trở ngại, ông ta bèn sốt sắng
xông đến các chính sách, len lỏi vào các dinh cơ để moi tìm những thâm cung bí
ẩn. Đối với mọi chính sách, mọi quyết định của chính phủ, ông Ba Thê có cái
khiếu giỏi tìm ra những chỗ ý ngoại, và lấy làm đắc ý tới nỗi ông ta không sao
cầm lòng được, phải chạy đi kiếm người nghe mình trình bày. Theo sự trình bày
của ông Ba Thê, phía sau mọi chủ trương, mọi quyết định đều có những lý do rất
ít khi tốt đẹp và những câu chuyện rất ly kỳ. Thường thường người ta hay có
dụng ý “chơi” nhau và bao giờ cũng bị ông Ba Thê thấy ý định của họ rõ như ban
ngày. Người ta cũng hay mưu mô thủ lợi, nhưng rồi ông Ba Thê cũng vạch được mưu
mô của họ dễ như bỡn. Chẳng hạn phóng một đoạn đường về ngã này là vì có một
nhân vật định mua đồn điền về phía ấy, dựng một cái cầu ở chỗ kia là vì lại có
một nhân vật muốn tìm việc cho cậu em vợ làm thầu khoán.
Ông Ba Thê mang vào sự luận đàm thời thế của ông cái ham mê của người theo
dõi một ván cờ tướng. Cho nên lắm khi ông ta nhấp nhỏm muốn can thịêp vào lắm.
Có lần ông tỉnh trưởng quyết định đuổi đi mười mấy ngôi nhà cất bất hợp pháp để
nới rộng bến xe, tức thì ông Ba Thê tìm ra lý do ngay:
— Anh tỉnh trưởng này khôn thiệt. “Y” mở rộng bến xe, “y” có lợi. Phía tây
bến xe còn một khu đất trống, “y” định cất lên một căn phố, dưới mở tiệm ăn
trên làm phòng ngủ. “Y” đuổi mấy cái nhà phố bất hợp pháp bên này thì khách
hàng dồn cả sang phía của “y”.
— Nhưng ông ta đã cất phố đâu?
— “Y” sẽ cất chớ, “y” dại gì mà không cất? Mình tính còn ra, “y” lại không
trù tính ra à?
— Có thể ông ta không sẵn tiền, hoặc ông ta dùng tiền vào chuyện khác, hoặc
ông ta sợ mang tiếng.
— Thì “y” để cho vợ đứng tên chớ. Tôi biết mà, thế nào “y” cũng cất phố chỗ
đó. “Y” sẽ cất.
Ông Ba Thê ghét lối suy tưởng vất vả, ông cho mình cứ tính như thế là phải
đúng cái thâm ý của “y”, là lấy làm đắc ý.
Rồi kế đến các chủ nhà bị đuổi kêu nài. Ông Ba Thê chăm chỉ theo dõi thái
độ hai bên. Ngày nào ông ta cũng sang các nhà láng giềng bàn luận, phân tách lý
sự phải trái của bên đuổi đất và bên bị đuổi. Cho đến một hôm ông ta nghe nói
mấy người chủ nhà có viết cái đơn nhờ đăng trên nhật báo để xin cứ ở lại chỗ
cũ. Ông Ba Thê đi tìm mượn tờ báo vể đọc, tấm tắc ngợi khen, và mang đi cho mọi
người xem. Ông Ba Thê quyết định đứng hẳn về phe chủ nhà. Ông ta ra phố, đến
tận bến xe, rồi trở về bảo với người này người kia rằng:
— Tôi đã trông thấy anh chủ tiệm vải Hòa Hưng, va cầm đầu hết thảy mười mấy
người chủ nhà bị đuổi. Tay này cứng. Coi bộ va rành lắm. Nhất định va biết
đường kêu. Nghe nói va đã gửi thư bảo đảm tới Quốc Hội, đồng thời tới bộ Nội
Vụ, tới thủ tướng. Va còn mướn luật sư. Thằng cha cứng đầu “te-ríp”.
Bà Ba Thê nghe ông ta tiếp tục bênh vực ông Hòa Hưng, mà công kích phía
đuổi đất mạnh quá, bà lo ngại nhắc nhở:
— Ông liệu lời nói cho dè dặt một chút, kẻo động thời thế...
Lúc đầu ông Ba Thê cũng có phần e dè, nhưng về sau ông cứ cọ xát mạnh vào
thời thế, cứ động chạm bừa vào nó mãi mà vẫn không thấy gì, ông ta bèn say sưa
với sự tự do. Ông ta bàn luôn tới cả những việc cải tổ chính phủ, tới tình hình
kinh tế, quân sự v.v...
Cứ độ vài ba tháng ông Ba Thê lại thì thào báo cho mọi người biết một dự
định cải tổ chính phủ. Toàn là những dự định còn giữ kín. Anh giám đốc này sẽ
thay anh đổng lý kia, cụ nhân sĩ này sẽ ra đời tham chính, nhà cách mạng lão
thành nọ đặt điều kiện... Những cải tổ gấp rút ấy lúc thì do Mỹ nó đòi, lúc thì
do Pháp nó đề nghị, lúc thì do “tình thế đặc biệt”. Cứ thế không mấy khi ông Ba
Thê chịu để cho chính phủ yên thân quá ba tháng liền. Lần nào cải tổ gấp quá,
đột ngột quá, ông Ba Thê nóng ruột không thể ngồi nhà chờ bạn bè tới để báo
tin, ông — chính ông — phải đi thăm hết người này tới người khác, hấp tấp vất
vả. Trong sự tích cực sốt sắng ấy có một bi quan ghê gớm. Ông Ba Thê bĩu môi,
lắc đầu nói về các nhân vật chính phủ: anh này rung rinh, anh kia lung lay, anh
nọ bấp bênh... Và ông ta giơ lên một ngón tay đe dọa: “Chuyến này thì là thay
đổi lớn nhé! Thay đổi căn bản đấy nhé!”
Ngừng một lúc lâu, ông Ba Thê chợt chép miệng mơ màng: “Te-ríp! te-ríp!
Tiếng kêu như dư vang vọng lại của cơn bão tố khủng khiếp đã qua. “Te-rip” là
tiếng thông dụng của một thời kỳ mới, chuộng những cái giật gân.
Tuy vậy, sau mấy mươi lần ông Ba Thê tiên tri, căn bản chính phủ vẫn y
nguyên mà ông ta cũng không hay tự ngờ vực mình. Ông Ba Thê cứ tiếp tục tỏ ra
vô cùng tinh nhạy trong cảm xúc về thời thế, ông ta cứ đánh hơi đoán trước mọi
biến chuyển rất xa xôi, ông ta lúc nào cũng hướng cả tai cả mắt của mình đón nhận
tin tức tình hình. Sống gần ông Ba Thê thỉnh thoảng người ta bắt gặp một cơn
sốt của thời thế.
Ông Ba Thê cứ như cái lá mỏng mà mỗi ngọn gió nhỏ phất qua đều làm cho nó
lay động run rẩy. Và điểm quái dị là nó tìm thấy khoái trá trong sự run rẩy ấy.
Những lúc ông Ba Thê lắc đầu kêu lên: “Chán ôi là chán, rồi còn thay đổi lớn,
rồi còn xáo trộn nữa!” người ta thấy rõ ràng cái đau buồn của ông, nhưng đồng
thời người ta cũng thấy ông thiết tha với nó hết sức.
Hai mươi năm về trước trong sự nhàn rỗi quanh năm ông BaThê chỉ thèm xem
hát, thèm chọi gà, và đánh bạc. Các chính biến và những năm loạn ly đã tập cho
ông chú ý đến một khuây khỏa mới: thời thế. Và ông Ba Thê Đồng Thời nghiện thời
thế giữa lúc ông bác già Đại Cuộc nghiện xi-nê; trong buổi xế chiều của cuộc
đời mỗi người bạn phát lộ rõ một xu hướng tinh thần.
Duy đối với ông Ba Thê, suốt mấy mươi năm, có một điều không thay đổi là
“thời buổi bây giờ” kinh tế vẫn khó khăn. Mặc cho những thay đổi căn bản, vẫn
chưa phải là thời buổi ra tay làm ăn được.
Những buổi chiều ở nhà ông Ba Thê, lúc trời chạng vạng tối, bóng bà Ba Thê
trăng trắng đứng ở trong cùng gian phòng sờ soạng chậm rãi chùi cái bóng đèn,
cô cháu gái đi chợ về muộn lom khom bên bếp lửa rang một mớ tép khô làm bay lên
mùi khen khét, trong lúc ấy ông Ba Thê xếp cả hai chân lên võng đưa kẹt kẹt
loáng thoáng trong bóng tối nhá nhem, tiếp tục nói hăng về thời thế, về các
“giã” các “va”, về những biến đổi vô thường rất hấp dẫn kích thích của tình
hình... với một vài người khách ngồi trong phòng, trông không còn rõ mặt.
(Trong số cũng có ít nhiều người khách tới lui vì cô cháu gái ông Ba Thê đang
còn chê chồng). Phía bên ngoài hàng rào dâm bụt thỉnh thoảng một chiếc xe gắn
máy cũ kỹ lướt qua, tiếng nổ gắt gỏng nóng nảy tạt rè vào giữa câu chuyện của ông
Ba Thê trong phòng.
Bác tôi chết vào cuối mùa đông năm Hợi ấy. Tôi không biết bác tôi chịu rửa tội đi đạo từ lúc nào, mãi
đến khi bác chết, trông thấy lễ nghi tống táng tôi mới hay.
Khi quan tài bác đưa tới nhà thờ làm phép xác tôi có thấy ông Ba Thê đến
dự, và ông ta cũng tỏ vẻ ngạc nhiên như tôi.
Sáng hôm ấy, vì chủ chiếc xe vận tải hạng nặng thuê chở quan tài có lãnh
một mối chở gạo đi Pleiku nội trong ngày nên vội vàng đưa bác tôi đến nhà thờ
quá sớm. Mới bảy giờ, quan tài đã đến sân nhà thờ. Người tài xế lùi xe vào tam
cấp hơi quá trớn một chút, tấm ván cửa phía sau xe mở lật xuống, chạm vào bậc
cấp xi-măng, kêu một tiếng lớn, khô, như tiếng gỗ bị đập vỡ. Người lơ xe vừa
khoa tay ra dấu vừa la to; tiếng la vang lên đột ngột, tự do, đem cái không khí
hoạt động vô tình của chỗ bến xe vào trong khoảng sân rộng và vắng của giáo
đường.
Quan tài khiêng xuống. Những cây nến cắm trên mặt quan tài ngã xuống, tắt
cả. Các cây nến tiếp nhau ngã trên mặt quan nghe lộp cộp, ghê rợn. Quan tài
xuống khỏi xe rồi, trong chiếc xe “poa lua” rộng lớn chỉ còn lại người vợ bé
của bác tôi, già và gầy, mặc tang phục trắng toát, đứng nghẻo đầu, toát mồm ra,
khóc ngất không ra tiếng, thành một hình tượng rũ rượi kỳ dị.
Mấy người phu khiêng quan tài vội vã đi vào nhà thờ. Nhưng một thầy câu
chạy ra ngăn lại, yêu cầu lùi ra trước cửa, chờ linh mục làm lễ.
Độ năm bảy cậu học trò của trường tiểu học bên cạnh nhà thờ, đi học sớm,
ban đầu rụt rè chụp ấn cái mũ trước ngực, dừng lại dưới tam cấp, tò mò đứng
nhìn. Một lát sau, bạo dạn lần và tụ tới đông lần, chúng xúm nhau đùa giỡn xung
quanh chiếc xe.
Gần bảy giờ rưỡi quan tài mới được đưa vào trong nhà thờ. Cùng với mấy kẻ
thân quyến và một số giáo dân đến đọc kinh mai, tôi quỳ xuống một chiếc ghế,
giữa ngôi giáo đường cao rộng thênh thênh và mát rượi. Những nét mặt yên lành
kính cẩn, tiếng đọc kinh rền rền đem đến một cảm tưởng thanh thoát, yên ủi,
trấn tĩnh. Chiếc quan tài phủ giấy đen choáng một chỗ nhỏ dưới nền, giữa ngôi
nhà thờ cao vút; cái chết như thu nhỏ lại, như tự xóa đi giữa lễ nhạc trang
trọng, mực thước, êm đềm. Cái chết lấy lại bình tĩnh và thản nhiên.
Tôi ngẩng đầu lên, đưa mắt lần lượt nhìn từ những ngọn nến trên bàn thờ hai
bên tượng Đức Mẹ, cho đến cái ánh sáng buổi mai rực rỡ qua những tấm kính cửa
màu vàng và xanh, đến hai con sẻ đuổi cắn nhau kêu chách chách dưới vòm nhà
thờ... tôi ngẩn ngơ, quên lãng, không kịp nghĩ trong cái chết của bác tôi có gì
đáng khóc.
Khi chúng tôi ra khỏi nhà thờ, nắng đã bừng sáng lên khắp các mái ngói của
thành phố. Chiếc xe “poa lua” đi tới nghĩa địa hơi vội vã. Số thân quyến theo
xe đưa bác tôi ít bớt lần. Đến huyệt chỉ còn lại năm người.
Lúc trở về, trời đã nắng gắt. Tuy còn là mùa đông mà đã thấy nóng. Tôi dừng
lại bên đường, rút khăn lau mồ hôi rươm rướm trên trán, và uống một ly nước
chanh. Vừa đưa ly lên môi tôi nghe một giọng nói quen quen sau lưng, ngoảnh
lại, và thấy ông Ba Thê đang hoa tay kể chuyện quốc trưởng mới vừa cho một
chiếc máy bay trực thăng ra thẳng Côn Lôn rước một chính khách bị lưu đày ngoài
đó về gấp để bàn việc nước suốt đêm, chuẩn bị cải tổ quan trọng. (Dẫu sao như
thế cũng không có gì hoang đường hơn là việc mài xương ông Bảo Đại).
Tôi mời ông Ba Thê một ly nước chanh.
Trong khi ông Ba Thê đứng bên cạnh, đội chiếc mũ cối vành rộng và mỏng,
kiểu rất xưa, đánh phấn trắng toát, trong khi ông ta khuấy cái thìa trong ly
nước làm kêu lên những tiếng lanh canh trong trẻo, tôi nheo mắt nhìn ánh sáng
nhấp nhánh trên mặt nước biển xanh ngắt.
Ông Ba Thê và tôi: chỉ còn lại
có chừng ấy. Tất cả cái dĩ vãng kéo dài từ thuở tôi đứng mấp mé ngoài hè nhìn
trộm Loan làm Điêu Thuyền, đến những ngày thấp thỏm theo sự thăng trầm của hai
chiếc bồ, những ngày nằm rừng và chịu bắn giữa lưng đèo... cho đến ngày nay,
mỗi ngày mỗi gầy sút, rốt cuộc chỉ còn lại được vài người không nghĩa lý: ông
Ba Thê vẫn là một kẻ ăn xin bằng danh thiếp như từ đầu chí cuối, và tôi, từ đầu
chí cuối vẫn quấn quít xung quanh thân thế một kẻ ăn xin. Và đến nay thì tới
lượt tôi sắp rời bỏ Qui Nhơn. Hai chúng tôi nhờ ông Sáu mà lại có cơ hội gặp
nhau trịnh trọng giữa mâm rượu.
Vậy thì chiều hôm ấy chúng tôi cùng đi Phước Mai bằng ghe, có đem theo chú
Tư Tái, y như lời ông Sáu.
Ra khỏi bờ chừng nửa cây số, chưa có cá gỏi, chưa có hàu, nhưng ông Sáu đã
đề nghị mở rượu ra bắt đầu nhắp từng hớp trong khi chờ đợi. Ông Ba Thê không
phản đối, lại cho rằng có thể bổ quả thơm ra nhắm với rượu cũng không đến nỗi
dở. Chúng tôi có mời chú Tư Tái thử một hớp. Chú ta dìa cả hai tay về phía
chúng tôi làm dấu xô chén rượu ra. Tôi ép:
— Chú nhắp một chút cho ấm để chuẩn bị lặn xuống lấy hàu.
Tư Tái giải nghĩa:
— Mời thầy! Xin mời thầy dùng trước. Em chưa dám đâu: gỡ hàu phải cho khéo
léo, mà có rượu vào thì mình sinh ra dạn tay. Cho nên uống rượu gỡ hàu thường
bị đứt tay. Để rồi em gỡ hàu xong, lên ăn nhậu một thể.
Ông Sáu mau mắn, tán thành:
— Thằng Tư nó nói trúng. Thôi ể dành phần nó lại sau... Với lại tôi
biết tánh nó không uống ược mấy âu.
Tư Tái quét ngang qua mặt ông Sáu
một cái nhìn khinh thị, rồi khoanh tay ngồi ngó lảng ra ngoài khơi, không nói
nữa. Thằng bé Thành, con ông Sáu, một mình cầm hai mái chèo ngang, chiếc ghe
lúc la lúc lắc tiến chậm chạp trên một mặt biển láng gió dọc theo bờ gành bên
phía mũi Đèn. Những lúc dứt câu chuyện, tôi để mắt hững hờ nhìn từ con nha màu
xám tro lỏng khỏng trên hai chân vàng vàng, đi len lỏi giữa những tảng đá lớn
chạy doi ra mé nước, đến những con cò đen đứng cao nghều nghệu trên đá hoặc bay
sà trên mặt nước, đến những đàn cá đối nhảy vượt trên sóng, sáng ánh lên dưới
nắng chiều chiếu xiêng v.v...
Ghe ghé vào bờ, Tư Tái nhảy xuống
nước gỡ hàu. Cứ một lúc chú ta lại trồi lên thở phì ra một cái mạnh, vung vung
cái đầu để rảy nước, ném lên cho chúng tôi một nắm hàu rồi lại hụp xuống. Ông
Sáu lăng xăng chăm chỉ như bất cứ lúc nào có món ăn. Thằng bé Thành chạy lên
ngọn hải đăng mời ông Tám xuống. Cuộc ăn uống bắt đầu uể oải, hàu thì ít quá
không kịp để ăn, chuyện đi chuyện ở lạt lẽo quá không có gì sôi nổi. Rốt cuộc
ông Sáu nóng nảy đón một chiếc sõng đang chèo vun vút chở cá về Qui Nhơn để
bán; hỏi cá trỏng không có, ông đành mua một con cá thu, luộc qua, cuốn với
bánh tráng kẹp rau thơm. Lúc bấy giờ Tư Tái hết sợ đứt tay, cùng trèo lên ghe
nhắp rượu.
Tuy nước da chú thợ lặn trẻ tuổi
ấy đặc biệt tái ngắt, nhưng chỉ có hai chén rượu nhỏ là đủ làm cho nó đỏ ửng
lên. Chú ta bắt đầu nói huênh hoang về tài lặn tám sải nước của mình. Ông Sáu
lại tỏ ý ngần ngại, toan bảo Tư Tái bớt rượu lại. Lần này chú ta cự liền:
— Bác Sáu! Em giận bác đó. Bác sợ
em say sưa, nói nhảm trước mặt mấy thầy đây phải không? Bác yên trí: em là
người biết phải. Nói vậy cho quí thầy với bác biết chừng.
Ông Sáu bật cười, dễ dãi. Chúng
tôi đồng ý cứ để Tư Tái tự do. Đám ăn uống do đó mỗi lúc mỗi huyên náo dưới
chân gành, lôi cuốn chúng tôi vào một không khí cởi mở khá thích thú.
Tiệc tàn, ông Sáu, ông Ba Thê và
tôi cùng kéo nhau lên nhà ông Tám tận trên mỏm múi. Đường đi ngoằn ngoèo quanh
co và dốc ngược quá. Trèo lên đến ngọn núi thì vừa thấm mệt.
Mặt trời đã lặn. Dừng lại trên
một quãng đường núi đầy đá dăm lởm chởm, dưới chân ngọn hải đăng, nhìn ra trời
nước ngui ngút mịt mù, tôi tự nhiên buồn dịu dàng.
Vài chiếc sõng nhỏ chòng chành
trên sóng nhấp nhô; đó là những chiếc sõng chở cá từ bên Sơn Châu qua Qui Nhơn
bán, đang vòng quanh mũi Đèn để trở về. Một con chó rài đứng trên mỏm đá cao
đầu gành sủa văng vẳng xuống bể rộng bốn bề. Tôi có cảm tưởng như là một Từ
Thức xa trần thế đã lâu năm, nghe tiếng chó sủa tiếng gà gáy, nhớ về thôn xóm
rất xa xôi. Tuy vậy mà Qui Nhơn của tôi chỉ cách có một eo biển hẹp. Tôi có thể
nhìn thấy Qui Nhơn với khói chiều tỏa lên xanh mờ mờ. Tôi có thể phất tay vẫy
chào Qui Nhơn được, mà Qui Nhơn đối với tôi như đã là dĩ vãng. Phất tay vẫy
chào Qui Nhơn như là vẫy chào một dĩ vãng đang lùi xa.
Cũng trong cái ảo tưởng thoát
trần của một lúc đứng cheo leo ngoài đảo hoang, tôi thương hại dịu dàng tất cả
những say mê khổ sở cùng những ngày chán nản của tôi ở Qui Nhơn, những hăng hái
quờ quạng và sự ngơ ngác thất lạc của bác tôi trong bao nhiêu năm, tôi thương
hại số phận của người này, người khác... Và tôi thương cả ông Ba Thê với tất cả
những bôn chôn rạo rực vô lối về thời thế của ông ta: thời thế chuyển mạnh trên
đất nước như dòng sông trôi, và những chiếc lá mục bết bùn ở dưới đáy sông cũng
cựa quậy ve vẩy. Tôi thấy lòng dịu dàng thương cả sự ve vẩy vô bổ của ông Ba
Thê trước thời cuộc.
Cuối một quyển truyện tình nào đó
của Tourguéniev, cô con gái xinh đẹp Zinaida từ từ cúi xuống đặt môi hôn lên
cái dấu roi của một người tình già quất mạnh còn in rõ trên cánh tay cô ta. Tôi
tưởng như mình cũng đang cúi hôn lên cái dĩ vãng gồm toàn những chuyện đau lòng,
ngớ ngẩn. Vừa hôn vừa ngạc nhiên không hiểu tại sao mình làm như thế.
Gió chiều thổi mạnh làm cho mọi
người nôn nao chơi vơi. Ngọn đèn pha trên đầu chúng tôi đã chiếu phóng ra ngoài
khơi tối đen những tia ánh sáng vàng tai tái. Ông Tám lên tiếng mời mọi người
vào nhà.
Và đến khi chúng tôi cáo từ vợ
chồng ông Tám để trở lại ghe thì Tư Tái đã uống hết cả rượu trong chai, đã đánh
rơi một cái dao xuống nước, đập vỡ mất một chiếc ly, đang cãi cọ om sòm với
thằng Thành. Chúng tôi an ủi “người biết phải” mấy câu, và chèo ghe trở về Qui
Nhơn.
Ông
cụ Hoa Lan chọn cho tôi một ngày tốt đẹp dưới ảnh hưởng của sao Trương, một
ngày nên làm nhiều việc: hội hữu, xuất hành, nạp tài, di cư, nhập thương, an
môn, tu trù, tác táo, v.v...
Vậy thì một ngày “Trương tinh chi
nhật”, vào giờ dậu có in bằng chữ đỏ kỹ càng trên quyển lịch Ngũ kinh đường của
ông cụ Hoa Lan, chiếc đầu tàu Diesel huýt lên một tiếng ngắn, tôi bắt
đầu xuất hành rời bỏ Qui Nhơn đi làm ăn một nơi xa.
“Nghi tác táo, nghi an môn”...
dựng nhà cửa, bếp núc, như thế không ngầm có nghĩa là có thể lập nên một cuộc
đời mới rồi sao? Tôi sẽ lập lại một cuộc đời khác, tôi mong sẽ sống một giai
đoạn mới mà thời cuộc lạnh lùng không vung vẩy làm tan tác lần lượt ở dọc
đường, ngay dưới mắt mình, những cuộc sống có liên hệ, để làm mủi lòng mình;
tôi mong sẽ tránh được khuất mắt những ve vẩy hèn mọn bất lực trước cuộc đời
luôn luôn xáo động...
Tôi sẽ... tôi sẽ... tôi sẽ thoát
khỏi “thời buổi bây giờ”, tôi sẽ không kéo dài mãi hôm nay nữa, tôi trịnh trọng
bắt đầu ngày mai.
Sài Gòn 11-1960
1 Nhân vật này
cũng xuất hiện trên một số truyện khác của Võ Phiến.
2 Xem chú thích 1.
3 Xem chú thích 1.
4 Tuồng Tam Quốc của cụ tú Thận.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét