Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014
Từ Dung - Mẹ tôi
NGƯỜI VIẾT: TỪ DUNG,
CON GÁI ÚT HOÀNG ĐẠO
![]() |
Bà Hoàng Đạo |
Tôi không biết phải
bắt đầu ra sao khi viết về mẹ tôi, vì có rất nhiều điều để nói.
Cũng có thể dưới con mắt chủ quan, tôi nghĩ bà là một trong những
người phụ nữ phương Đông tuyệt vời nhất trên cõi đời này. Người mẹ
dịu hiền mà tôi được may mắn biết đến, với đầy đủ những đức tính
về công, dung, ngôn, hạnh của một người đàn bà Á Đông, đã hy sinh cả
một cuộc đời mình cho chồng, cho con và cho những nghĩa cử từ thiện
ngoài xã hội với nụ cười luôn trên môi cùng chiếc răng khểnh duyên
dáng.
Công, Dung, Ngôn, Hạnh
Về mặt dung nhan, vẻ
đẹp dịu dàng và đằm thắm của mẹ tôi đã hơn một lần làm rung động
những người phái nam có địa vị quan trọng trong nhiều lãnh vực xã
hội. Bà cao dong dỏng, thân hình đều đặn thanh tú, nước da mịn màng
trắng trẻo, dáng đi yểu điệu và uyển chuyển, khuôn mặt trái soan,
cặp mắt hơi hiếng (lé kim), mơ màng nhưng sâu sắc, miệng cười duyên
dáng với chiếc răng khểnh và cặp môi đầy đặn. Tôi có đọc vài cuốn
sách viết về mẹ tôi với những lời mô tả thiên lệch bắt nguồn từ
những ghen ghét nhỏ mọn. Những người viết này cố tình hạ thấp dung
nhan, phẩm hạnh của bà vì đố kị nên những người từng được tiếp xúc
với bà vô cùng bất mãn vì những dối trá trắng trợn đó. Theo ý một
số những người có dịp tiếp xúc với bà, bà là một trong những
người đẹp và hợp thời trang nhất tại Hà Nội vào những thập niên
1930-40. Ngay cả về sau, khi đã trên bốn mươi tuổi và có bốn người con
lớn, bà vẫn là một phụ nữ có vẻ đẹp sang trọng và thanh lịch có
tiếng ở Sài Gòn.
Tôi còn nhớ, trong
lúc ở giá để nuôi các con ăn học thành tài, mẹ tôi đã từ chối khéo
léo và khiêm nhượng những người đàn ông theo đuổi bà và về sau họ
vẫn quý mến và nể phục tư cách của mẹ tôi. Một trong những người
này đã qua đời đã giữ lòng thương quý mẹ tôi ngay cả khi bà đã
tạ thế. Khi ra đi nước ngoài, ông gửi thơ về nhờ tôi đặt lên mộ mẹ
tôi một bó hồng đỏ thắm mỗi tuần lễ, như ông vẫn thường làm trước
khi ra đi!
Mẹ tôi đã từ chối
tất cả những người đàn ông đến sau, vì trong trái tim của bà chỉ có
hình bóng của một người yêu duy nhất, đó là ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn
Tường Long.
Về công, tức là tài
năng khéo léo, ít có người phụ nữ nào có tài nấu nướng những món
ăn Việt cũng như Pháp tuyệt xảo như mẹ tôi. Nào canh bóng, vây, bào
ngư, nấm nhồi giò, chả nem rán, bánh chưng gói, món Tây thì súp legume,
bò hầm đậu, cua phá xi...
Các ngày giỗ chạp,
tiệc rượu linh đình, một mặt mẹ tôi nấu ăn và chỉ dẫn cho người
giúp việc, một mặt tiếp đãi khách với nụ cười hiền thục trên môi.
Ai cũng phải mến yêu bà. Chị Thu tôi đã lớn thì giúp một tay, còn
tôi bé út nhất nhà (cách anh Lân đến 9 tuổi) chỉ chạy chơi và chực
ăn trứng luộc trên bàn thờ!
Sau này mẹ tôi mở
tiệm Chả Cá Thăng Long (1959) ở đầu đường Phan Thanh Giản. Tiệm rất
đắt khách và là một trong những tiệm ăn sang trọng thanh lịch và ngon
lành tinh khiết nhất Sài Gòn lúc bấy giờ.
Về ngôn, khoa ăn nói,
mẹ tôi ăn nói nhã nhặn, điềm đạm và nhu thuận, lúc nào cũng giữ vẻ
bình tĩnh. Bà cũng dạy các con phải ăn nói đàng hoàng. Ngoài phái
nam ra, phái nữ cũng thương mến bà, bạn bè và các bà cô, dì hai bên
họ đều tìm đến bà khi hoạn nạn, nhưng cũng có một số nhỏ đem lòng
ganh tị và tìm cách bôi nhọ thanh danh bà.
Về phẩm hạnh, không
ai có thể chối cãi rằng mẹ tôi là một phụ nữ đảm đang, hy sinh cả
cuộc đời cho chồng, cho con mà không hề phàn nàn, than vãn.
THỜI THƠ ẤU CỦA MẸ
TÔI BA MẸ TÔI GẶP
GỠ NHAU
Sinh ra trong một gia
đình quý phái, trưởng giả, mẹ tôi lại có những đức tính đơn
giản, tốt bụng hay thương người. Ông ngoại tôi làm tham tá công chánh
dưới thời Pháp thuộc, bà ngoại tôi là một mệnh phụ đài các nhưng
khôn ngoan, biết quản lý tài sản của ông tôi, biết tiết kiệm. Mẹ tôi
lại là con một nên được lo toan rất chu đáo, quá chu đáo đến nỗi mẹ
tôi cảm thấy ngộp thở. Bà ngoại tôi tính tình độc đoán, muốn chồng
con phải phục tùng theo cách sinh hoạt của bà. Thậm chí mẹ tôi chỉ
được quyền chơi những đồ chơi bà ngoại cho phép. Mẹ tôi kể lại rằng
một lần ông ngoại lén cho mẹ một con búp bê mà mẹ tôi thích, khi
bà ngoại biết được, bà lập tức vứt đi. Mẹ tôi khóc và nhớ mãi
chuyện ấy. Bà ngoại rất yêu mẹ tôi, nhưng cụ vẫn giữ tính khắc nghiệt
đó nên có những đụng chạm cãi vã không thể tránh được giữa hai mẹ
con.
Khi ba mẹ tôi gặp gỡ
nhau, họ bị tiếng sét ái tình đánh choáng váng. Một bên cảm vì
sắc, một bên mến vì tài. Ba tôi tuy ít nói, nhưng có lối châm biếm khôi
hài thật duyên dáng và sâu sắc đã chinh phục được trái tim trong
trắng của mẹ tôi. Tính cách khôi hài này được thể hiện trong tập “Trước
vành móng ngựa”. Mối tình của ba mẹ tôi là nguồn hứng khởi của mối
tình của Duy và Thơ trong “Con đường sáng”. Là một phụ nữ có tâm hồn
nhạy cảm và chịu ảnh hưởng phong trào văn hóa mới vì mẹ tôi theo
học trường Pháp và tốt nghiệp trường Pháp, bà thông cảm và hỗ trợ
chí hướng phi thường của ba tôi, người đã từ chối chức tri huyện khi
tốt nghiệp cử nhân luật, sau lại bỏ chức biện lý vì chống lại tòa
án Pháp thuộc ngày đó. Điều này thể hiện trong tác phẩm “Trước
vành móng ngựa”.
Phải là một phụ nữ
phi thường mới thấu hiểu và tôn trọng một tâm hồn phi thường như ba
tôi, và mới hy sinh tuổi xuân sắc để giúp đỡ chồng một cách đắc lực
trong quá trình tranh đấu cho dân tộc và đất nước.
Lần đầu khi đi xem
mắt mẹ tôi tại tòa biệt thự của bà ngoại tôi ở bãi biển Sầm Sơn,
ba tôi đã bị tiếng sét ái tình. Mối tình đẹp như thơ đó đã bị cả
hai bên gia đình phản đối, bên nội vì lý do bà nội tôi không chuộng
gia đình trưởng giả, bên ngoại vì không cho là đủ môn đăng hộ đối.
Nhưng ba mẹ tôi đã vượt thắng tất cả để tìm đến nhau và lập gia
đình!
MỘT CUỘC HÔN NHÂN ĐẦY
HY SINH VÀ CHIA LY
Chị cả tôi, chị Minh
Thu, ra đời năm 1934, là tác phẩm đầu tiên của sự kết hợp tuyệt vời
đó. Năm kế là anh Nguyễn Tường Ánh và cách một năm nữa là anh Nguyễn
Lân. Ba mẹ tôi những tưởng anh Lân là con út rồi vì lúc đó ba tôi rất
ít khi ở nhà, ông đã bị quay vào guồng máy thời cuộc lúc ấy. Khi ba
tôi bị bắt, bị tra tấn tại sở mật thám và sau bị đi đày ở Vụ Bản,
Chân Lạp Sơn, mẹ tôi rất lo buồn và đi lại tiếp tế nhiều lần. Tháng
Tám, 1946, ba tôi cầm đầu phái đoàn hòa giải, trong đó có cả người
của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của bên Việt Minh, và có nhân viên bộ Công
Chính là kỹ sư Đỗ Xuân Dung để xem tình hình nước lụt ở Việt Trì
(ngã ba sông Hồng Đào) và ba tôi bị bắt. Khi được thả ra, ba tôi sang
Trung Hoa gặp gỡ bác Nguyễn Tường Tam và các anh em khác. Thời gian
đó mẹ tôi thường xuyên mang vật phẩm và tiền bạc sang tiếp tế cho ba
tôi và các anh em khác. Ngoài ra, một tay bà lo dạy dỗ các con, chăm
sóc mẹ già và cũng một tay bà lo toan hỗ trợ người chồng cách
mạng lưu vong nơi xứ người. Phụ nữ như thế không phải ở thời đại nào
cũng có!
Ba mẹ tôi lúc ấy như
Chức Nữ Ngưu Lang, chẳng được thường xuyên gặp gỡ nên mỗi lần trùng
phùng thật quý giá vô cùng! Tôi là kết qủa của một trong những lần
gặp gỡ đó. Ba tôi gởi thư về dặn mẹ nếu là con gái thì đặt tên Từ
Dung, con trai thì Duy hoặc Giản. Như vậy Từ Dung là tên cúng cơm của
tôi chứ không phải tên hát xướng đặt theo một nhân vật khác! Từ Dung
có nghĩa là hình Dung giống mẹ, vì ba tôi lúc nào cũng tưởng nhớ
mẹ tôi.
Tôi ra đời ngày 30
tháng Mười năm 1946 tại Hà Nội trong tình thương yêu của cả nhà. Ba
tôi vẫn ở biền biệt bên Trung Hoa nên chẳng thấy mặt tôi, chỉ nhận
được tin tức qua thư tín gia đình.
Lần gặp gỡ cuối
cùng của ba mẹ tôi năm 1948 tại Hongkong rồi sau đó ba tôi bị một cơn
đau tim tạ thế trên đường đi xe lửa về Quảng Châu, lúc đó tôi được 19
tháng. Được tin sét đánh, mẹ tôi phải lo tiền bạc quay trở lại chôn
cất ba tôi tại Quảng Châu. Hiện nay không còn biết mộ phần nằm
đâu nữa vì các nấm mồ đều bị khai quật dưới chế độ Cộng Sản!
Kể từ đó, mẹ tôi ở
vậy nuôi con cho đến khi các con khôn lớn. Bố con tôi chỉ biết nhau qua
hình ảnh thư từ. Tôi được nghe kể lại về ba tôi qua lời nói của mẹ,
của anh chị và của cậu tôi, Như Phong Lê Văn Tiến.
Tôi nghĩ rằng tôi
được thừa hưởng óc khôi hài châm biếm của ba tôi, cũng như dòng máu
văn chương chảy cuồn cuộn trong tim óc!
Tại Hà Nội, gia đình
tôi sống tại đường Lý Thái Tổ, Hàng Vôi. Trường Hàng Vôi là ngôi
trường đầu tiên trên con đường học vấn của tôi. Năm 1990, trước khi rời
Việt Nam, tôi ghé thăm ngôi nhà gia đình và ngôi trường thơ ấu. Ngôi nhà
xinh đẹp hai tầng có cây bàng trước sân giờ đây ngăn ra cho tám hộ ở,
phòng ngăn bằng vải rideau. Bàn thờ tổ tiên vẫn còn nguyên chỗ cũ
nhưng chỉ còn một ông lão còn nhớ về nguồn gốc căn nhà.
Trở lại năm 1954,
chúng tôi rời căn nhà thân yêu lên đường vào Nam trên một chiếc phi cơ
quân đội. Tôi mới có 8 tuổi nên chỉ nhớ là mẹ tôi vội trở lại miền
Bắc để thanh toán mấy căn nhà ở Hà Nội của bà tôi và gom tiền bạc
để sinh sống trong Nam. Lúc đó sắp sửa đóng cửa ra vào hai miền nên
các anh chị, tôi lo lắng sợ mẹ tôi bị kẹt lại Hà Nội.
Khi mẹ về, chúng tôi
hết sức mừng rỡ. Chúng tôi tạm ở chia với họ hàng bên ngoại một căn
nhà đường Đặng Dung, Tân Định. Đó là thời gian đẹp nhất của đời tôi!
Mẹ con, anh chị em đoàn tụ yêu mến nhau. Tôi ở tuổi bắt đầu ý thức
được tình cảm quý báu của gia đình. Ý nguyện của tôi là anh chị em
tôi sẽ trở lại quây quần như thời đó!
Khi đến học lớp Tư
trường Huỳnh Thị Ngà thì tôi gặp khó khăn với cô giáo Nam Kỳ với
giọng đọc chính tả mới lạ. Tôi có đến mười lỗi trong bài “Lạc
vào rừng” vì tôi không hiểu gì cả. Các bạn chế nhạo accent Bắc kỳ
và gọi tôi “Bắc kỳ ăn rau muống”. Đó là bài học đầu tiên của tôi về
kỳ thị địa phương dạy tôi sau này chống lại mọi thứ kỳ thị trên cõi
đời này!
ĐỜI SỐNG TẠI SAIGON
Cùng lúc ấy, mẹ tôi
mở tiệm phở và chả cá Thăng Long trên đường Trần Quang Khải, Tân
Định, sau chuyển về tiệm chả cá Thăng Long trên đường Phan Thanh Giản.
Sau này ngẫu nhiên quán cà phê nhạc Từ Dung của tôi mở năm 1978 cũng
lại tọa lạc trên con đường Trần Quang Khải và người hầu bàn trưởng
tại chả cá Thăng Long tên là anh Tư lại trở thành người pha cà phê
chính của quán Từ Dung.
Tiệm chả cá Thăng
Long do họa sĩ Nguyễn Gia Trí trang hoàng có một vẻ Á Đông trang nhã
với những chiếc cột đỏ, những tấm bình phong và hình vẽ đặc biệt
Việt Nam rất mỹ thuật. Một tấm tranh dân gian của Phạm Tăng treo dọc
cả bức tường trong căn phòng riêng của quán. Bức tranh này sau tôi bị
một tay văn sĩ hạng b, c gì đó lừa lấy mất!
Căn nhà mẹ tôi mua
rộng lớn, một bên mở tiệm, còn một bên gồm năm phòng để gia đình tôi
ở. Tiệm luôn đông khách tấp nập và các danh nhân, nghệ sĩ như Mặc
Thu, Nguyễn Hoạt, bác Nhất Linh, Chu Tử thường xuyên đến ăn chả cá.
Thế nhưng vấn đề tài chính không mấy khả quan vì mẹ tôi quá tốt
bụng, luôn nuôi ăn ở và trả lương cho 6,7 người giúp việc nên tiền vào
tuy khá nhưng ra cũng lắm. Mẹ tôi không bao giờ từ chối mở hầu bao
giúp cho những người đến cầu cứu gia đình tôi!
Lúc đó chị Minh Thu,
anh Tường Ánh lập gia đình nhưng lúc đầu anh Ánh vẫn ở chung với mẹ
tôi. Các anh chị có gia đình riêng nên không còn gần gũi nhau như xưa.
Tôi cảm thấy mẹ buồn nhưng không biết an ủi mẹ ra sao, chỉ biết rúc
vào lòng mẹ. Khi anh Ánh và vợ dọn đi ở riêng trong một căn nhà mẹ
mua cho anh, tôi được thừa hưởng căn phòng trống cạnh phòng anh Lân.
Trước mặt hai căn phòng là một sân cement nhỏ trồng vài cây cảnh như
cây trúc đào, cây mận sai trái vì tôi chôn xác con mèo dưới gốc cây.
Đằng sau phòng tôi là
một cây trứng cá trái mọng nước và rất ngọt. Căn phòng này đã ghi
một ấn tượng sâu đậm về thời thơ ấu của tôi sống êm đềm trong tay mẹ
hiền. Có phòng riêng rồi nhưng tôi vẫn đòi ngủ với mẹ để được hít
mùi da thịt của bà, thơm mùi nước hoa Guerlain và mùi phấn. Tôi cũng
đòi mẹ ngâm thơ Kiều hoặc hát quan họ cho nghe như lúc còn bé tí.
Cũng vì vậy mà tôi rất thuộc Kiều và những bài thơ ru em. Mẹ tôi yêu
nhạc Đông phương nhưng cũng mê nhạc cổ điển Tây phương, nên khi mẹ mất,
gia đình tôi mở nhạc Bach và Beethoven bên quan tài để hương hồn mẹ tôi
về thưởng thức, thay vì giọng ê a của các vị sư hay kinh của các cha
cố!
Sau này mẹ tôi bắt
đầu gặp khó khăn về tài chính nên phải bán đi một số nữ trang. Lúc
đó là đầu thập niên 1960, quân đội Mỹ đổ sang Việt Nam nên mẹ tôi theo
trào lưu cũng dẹp tiệm chả cá và cho Mỹ thuê một bên nhà để mở nhà
hàng có âm nhạc tên là Kontiki. Đêm nào tôi cũng được nghe tiếng đàn
hát vọng sang từ bên nhà hàng của ban nhạc Đăng Tiến, thỉnh thoảng
tôi cũng sang hát chơi những bản như Autumn leaves, A very precious love,
Mona Lisa....
Tôi khoảng 16 tuổi,
tuổi đầy mộng đẹp và bắt đầu mơ đến tình yêu!
Mấy năm sau mẹ tôi
bán căn nhà rộng lớn đường Phan Thanh Giản và mua căn nhà nhỏ hơn có
ba phòng ngủ và một căn gác ở Ngã năm bình hòa đường Chu Văn An.
Nhiều người ngăn cản bà mua căn nhà này vì nó nằm cuối ngõ cụt và
có mộ phần đằng sau nhà nên theo địa lý rất xấu. Không biết có
phải là mê tín không mà sau này mẹ tôi bị ung thư nặng và chết
tại nhà đó, bà ngoại tôi cũng chết theo ở tuổi 98 vì quá đau đớn,
mẹ tôi là con duy nhất của cụ, cậu tôi Như Phong Lê văn Tiến bị
bắt giam cũng ở đó, gia đình vợ chồng tôi thì phân tán, chia ly. Năm
Mậu Thân 1968 nơi này là tử địa của tàn quân Việt Cộng, sau khi VC
thất bại trong trận tổng công kích Saigon đã rút lui về nơi đây. Ngôi
nhà chúng tôi bị đạn bắn từ máy bay xuống lỗ chỗ đầy những vết
đạn, cũng may là khi cả khu phố bốc cháy như một con rồng lửa thì
bỗng dừng lại khi tới nhà chúng tôi. Thật là một phép lạ!
Tôi giúp mẹ, bà
ngoại và hai mẹ con bác giúp việc chạy khỏi nhà, chân phải chạy lung
tung tránh xác VC nằm đầy ngõ và tránh tầm đạn của hai bên bắn nhau.
Một ông hỏi ông khác «ai đánh ai?», ông kia trả lời «quân mình đánh
quân ta»!
Từ lúc đó mẹ tôi bị
ung thư bên cánh tay trái và căn bệnh kéo dài tới năm 1975 thì mẹ
tôi mất. Người y sĩ đã hết lòng chữa chạy cho mẹ là bác sĩ Trần
Ngọc Ninh, một người bạn thân của gia đình. Hai bác sĩ khác của gia
đình tôi là bác sĩ Phan Huy Quát và bác sĩ Kỳ Quan Thân.
Cánh tay xinh đẹp,
nuột nà, trắng bóc của mẹ tôi chỉ để đeo những nữ trang qúy giá nay
đã bị cắt đi đến hai lần, và sau cùng căn bệnh quái ác đã ăn
vào tủy sống làm mẹ hôn mê trong 24 tiếng đồng hồ trước khi từ gĩa
cõi đời. Trước khi bị hôn mê, căn bệnh ăn vào tủy làm bà thấy mọi
vật nhuộm muôn màu muôn sắc.
Không có gì diễn tả
nổi nỗi đau đớn của người mắc bệnh ung thư. Lầu 5 của viện ung thư ở
Gia Định phải rào lại vì nhiều người trong cơn đau đã nhảy xuống tự
vận. Trong khoảng cuối cùng của cuộc đời đầy hy sinh, chịu đựng, đau
đớn, bà vẫn tiếp tục làm phước, giúp người. Bà bảo trợ cho một số
người bị ung thư trong viện, trong số đó có một anh binh sĩ trẻ, đẹp
trai như Alain Delon. Anh bị ung thư xương chân, chỉ trong vài tháng là
từ trần. Mẹ tôi, lúc đó đã phải dùng tới codein cho bớt đau và bò
lết dưới đất rên la, cũng vẫn lo cho anh trong những ngày chót của
cuộc đời anh!
Tại sao một phụ nữ
hiền hậu như mẹ tôi và có lòng thương người lại phải chịu một số
phận đớn đau như vậy? Khi mẹ tôi chết đi, bà không bám víu vào một
niềm tin tôn giáo nào cả vì bà không tìm thấy đức tin nơi cuối đời.
Lúc gần chết, bà cảm thấy hoang mang...
Khi nhìn ngắm xác mẹ
trong chiếc áo trắng tôi mặc cho bà và cành hoa lan trắng trước ngực
bà, tôi mới ý thức được nỗi mất mát lớn lao đến thế nào. Đã quá
muộn để chiều chuộng mẹ, để nói rằng mẹ ơi con yêu mẹ, để cám ơn bà
cho tôi đời sống hôm nay và niềm tin ngày mai.
Có một con bướm
trắng bay quanh quan tài của mẹ nhiều lần trước khi hạ huyệt, có
phải chăng linh hồn mẹ muốn từ giã các con lần cuối?
Từ Dung xin thay mặt
người quá cố cũng như các anh chị gửi lời cám ơn anh Sơn con của cô
Thế đã lo việc rải tro xuống biển cho bà và mẹ chúng tôi tại Việt Nam
để linh hồn bà và mẹ chúng tôi được siêu thoát và xin Chuá ban phước
lành cho anh và gia đình anh.
Chấm hết
TỪ DUNG
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét