Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

Tô Văn Trường - ‘Hai mặt’ của kinh tế tri thức


Bài 1: Tri thức với phát triển kinh tế xã hội

Theo quy luật tiến hoá thì nhân loại tích luỹ tri thức. Chuyên gia Vũ Quang Việt cho rằng việc tìm hiểu về phát triển kinh tế trong bối cảnh thay đổi của lịch sử tư tưởng, chính trị và công nghệ là điều không những thú vị mà còn giúp thấy được sự ảnh hưởng qua lại giữa điều kiện phát triển kinh tế và tư tưởng.

Từ năm 1960, sau hội nghị giữa National Bureau of Economic Research và The Economic History Association ở Mỹ, việc phát triển và ứng dụng lý thuyết kinh tế và phương pháp lượng học vào nghiên cứu lịch sử được đặt ra. Chính điều này đã dẫn Douglas C. North, giải Nobel kinh tế năm 1993, người tự coi là bị chủ nghĩa Marx ảnh hưởng, đã đi đến kết luận là lý thuyết kinh tế tân cổ điển không thôi, không giải thích nổi lý do tại sao nhiều nền kinh tế tiếp tục đình đốn hoặc không phát triển được trong một thời gian lâu dài. Phải tìm đến vai trò của tư tưởng, ý thức hệ, thói quen suy nghĩ đối với việc tồn tại lâu dài của một thể chế không hữu hiệu. Sự kết hợp giữa nghiên cứu thể chế, tư tưởng và kinh tế đòi hỏi sự lượng hoá kinh tế.

Chúng tôi hiểu kinh tế tri thức không phải là vấn đề mới. Kinh tế tri thức bao gồm giáo dục, kỹ thuật, phương pháp quản lý (doanh nghiệp và xã hội). Kinh tế tri thức được biểu hiện trong cái gọi là multi-productivity, chỉ có thể đo được bằng cách loại trừ mọi ảnh hưởng khác như tăng lượng lao động, vốn (máy móc và tài nguyên thiên nhiên). Như vậy là nó có sai số. Trong thời gian IT ra đời người ta nói đầy rẫy về ảnh hưởng không lường được của cái gọi là kinh tế mới hay kinh tế trí thức. Nhiều nhà kinh tế thì thấy chúng cũng bình thường, không thấy sự nhảy vọt của năng suất nói trên. Thị trường chứng khoán của các công cụ này, sau đó sụp đổ. 



Chính sách, giải pháp xây dựng bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam là: thể chế môi trường kinh doanh, nguồn nhân lực chất lượng cao, hệ thống đổi mới, hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông. Trong 4 trụ cột phát triển kinh tế trí thức nêu trên, còn thiếu hẳn "trụ cột cái" là thể chế chính trị dân chủ. Chừng nào chưa chuyển đổi được từ ‘toàn trị’ sang ‘dân chủ’ thì mọi biện pháp phát triển kinh tế trí thức đều bị cản trở, cố gắng lắm cũng chỉ có những kết quả rất hạn chế.

Phạm trù kinh tế tri thức ra đời vào năm 1995, do tổ chức ODCP đưa ra. Tuy nhiên, nếu nhìn lại lịch sử loài người thì phải nhận biết rõ rệt hơn, con người là một sinh vật biết suy nghĩ nên phát triển vượt bậc khác với các sinh vật khác. Phương Tây đã có nhà triết học xác định con người là một cây sậy yếu ớt nhưng biết suy nghĩ (Un roseau pensant). Như vậy, quá trình phát triển của loài người cũng là quá trình phát triển của trí tuệ, của tri thức. Quá trình này đi từ bản năng, kinh nghiệm tích lũy được dần phát triển đến trình độ nhận biết và vận dụng được các quy luật của tự nhiên và xã hội để thực hiện quá trình tự tái sản xuất mở rộng, dẫn đến trình độ như hiện nay. 

Phát triển tri thức trong lĩnh vực nhận biết và vận dụng các quy luật của tự nhiên, loài người đi từ biết sử dụng các gậy gộc để đi đến thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, … tiến tới trình độ cơ giới hóa và tự động hóa như hiện nay. Trong lĩnh vực nhận biết và vận dụng các quy luật xã hội, loài người đã trải qua các phương thức sản xuất khác nhau, đi từ chế độ xã hội cộng đồng nguyên thủy, qua chế độ xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa để rồi tiếp tục phát triển sang một chế độ xã hội cao hơn mang tính chất vòng xoáy ốc.

Trong quá trình nhận biết và vận dụng các quy luật khách quan đó, đứng về mặt kinh tế, con người đã từng xác định thời gian cấm rừng, cấm đánh bắt cá vào các mùa sinh sản, đã biết lợi dụng năng lượng của nước, của gió, … để đi tới sử dụng máy hơi nước, rồi biết sử dụng điện năng và phát hiện nhiều nguồn năng lượng khác có thể chuyển hóa thành điện năng. Với các loại khóang sản cũng có tình hình tương tự như vậy. Quá trình đi tới nền văn minh nông nghiệp cũng là quá trình chuyển từ kinh tế lượm hái sang kinh tế trồng trọt, từ kinh tế săn bắt sang kinh tế chăn nuôi. Quá trình này, tri thức của loài người đã từ bản năng và kinh nghiệm để đi tới nhận biết các quy luật của di truyền để chọn lọc, lai tạo các loại giống cây trồng và vật nuôi (thậm chí cả đối với bản thân con người qua việc quy định cấm hôn nhân cận huyết thống). Do đó công nghệ gen, được coi là một thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sinh học cũng chỉ là bước phát triển của tri thức mà loài người đã tích lũy được.

Song trong quá trình nhận biết và vận dụng các quy luật của tự nhiên, loài người cũng phạm những sai lầm nghiêm trọng vào kéo dài đến ngày nay. Tuy nhận biết sai lầm đó nhưng vẫn chưa thống nhất được cách khắc phục. Có thể nêu một vài trường hợp cụ thể trong một lĩnh vực quan trọng sau đây:

Trong lĩnh vực năng lượng, việc phát minh máy hơi nước và chuyển lên thành máy phát điện đã dẫn đến hoàn thiện công nghệ này và được hiệu suất sử dụng ngày càng cao nên đem lại nhiều hiệu quả kinh tế. Thế nhưng con đường đó cũng đã dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn năng lượng khoáng sản, dầu khí, gây ô nhiễm môi trường, …Thế giới và Việt Nam đã đi vào con đường phát triển thủy điện nhưng bên cạnh mặt lợi ích, vẫn có những mặt hạn chế, tác hại và Việt Nam đã nếm mùi dẫn đến phải loại khỏi quy hoạch hàng trăm đề án thủy điện.



Thuỷ điện. Hình minh hoạ.

Trong điều kiện đó, có thể nói là vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học đã tìm kiếm và sáng tạo ra công nghệ sản xuất điện năng từ năng lượng thủy triều, năng lượng gió, năng lượng địa nhiệt, …. và nổi bật là năng lượng nguyên tử. Trong các nguồn năng lượng mới đó, năng lượng nguyên tử được nghiên cứu ứng dụng từ vào lĩnh vực ý tế sau đó được tập trung vào nhiệm vụ phục vụ chiến tranh dẫn đến việc sản xuất các loại bom nguyên tử, bom kinh khí, … 

Từ thành tựu của việc nghiên cứu sử dụng năng lượng nguyên tử đó, các nhà đầu tư đã chuyển sang lĩnh vực kinh tế với việc đầu tư phát triển các nhà máy điện nguyên tử, sử dụng uranium, nguyên liệu được dùng để chế tạo các vũ khí nguyên tử. 

Ngày nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu và khẳng định khả năng sử dụng plutonium vào sản xuất điện năng với độ an toàn hơn, thời gian tan rã các thanh nhiên liệu này ngắn hơn và đặc biệt là không thể dùng để sản xuất vũ khí nguyên tử. Thế nhưng để chuyển sang việc sử dụng nguyên liệu mới đó thì đỏi hòi vừa phải đầu tư để vừa tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiên công nghệ mới, vừa phải nghiên cứu chuyển đối các nhà máy hiện có sang sử dụng nhiên liệu mới nên các nhà đầu tư không sẵn sàng thực hiện việc chuyển đổi sang công nghệ mới và nhiều Chính phủ cũng không mặn mà đầu tư hỗ trợ việc chuyển đổi này. Đối với việc sử dụng năng lượng thủy triều cũng có tình hình tương tự. Mãi gần đây, nước Anh mới tiến hành đầu tư xây dựng nhà máy điện thủy triều lớn nhất thế giới và nếu thành công trong vận hành thì sẽ tiếp tục đầu tư vào phát triển nguồn năng lượng này, hạn chế sử dụng các nguồn năng lượng gây ô nhiễm và không có khả năng tái sinh.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, thế kỷ XX đã triển khai việc phát triển công nghệ hóa học để hóa học hóa nông nghiệp. Quá trình này cũng đã tạo bước phát triển vượt bậc của nông nghiệp song cũng để lại nhiều di hại như làm cho đất bị suy thoái vì không được bổ sung nguồn phân hữu cơ tạo độ phì của đất, dẫn đến việc ô nhiễm môi trường và tiêu diệt nhiều loại sinh vật cộng sinh, kể cả sinh vật có hại và có lợi.  Phải hàng chục năm sau, chúng ta mới bắt đầu thấy và ngấm tác hại của con đường hóa học hóa nông nghiệp. 

Trong khi đang phải khắc phục tổn hại của con đường hóa học hóa nông nghiệp thì ngày nay lại đang rộ lên vấn đề công nghệ biến đổi gen, coi đây là một mũi nhọn của kinh tế trí thức trong nông nghiệp. Thế nhưng, dù trên thế giới đã có nhiều cảnh báo về nguy cơ, tác hại của công nghệ biến đổi gen, nhưng các tập đoàn đầu tư vào lĩnh vực này lại đang tích cực lobby để tác động đến đường lối hiện đại hóa nông nghiệp, bất chấp lời cảnh báo về tác hại của giống biến đổi gen.

Xuất phát từ nhận thức trên, có thể thấy vấn đề vận dụng tri thức vào lĩnh vực phát triển kinh tế là một tất yếu khách quan đã được thực hiện từ hàng ngàn năm nay (nếu không muốn nói từ lâu hơn nữa) nên không phải là một vấn đề mới. Song trong quá trình đó, chúng ta cũng đã phạm sai lầm nghiêm trọng kéo dài dẫn đến những tổn thất lớn, mà ngày nay thế giới đã phải công nhận và tìm cách khắc phục. 

Do đã nhận thức được các mặt trái của quá trình vận dụng các quy luật khách quan nên đến nay, trên thế giới đã hình thành phong trào đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với phát triển kinh tế xanh, công nghệ sinh thái, … phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ và phát triển môi trường. Phải chăng vì nhận biết được sự cần thiết cần phải điều chỉnh cách vận dụng các quy luật khách quan theo một chiều hướng mới để khắc phục những sai phạm nghiêm trọng kéo dài nên OPCD đề xuất khái niệm kinh tế tri thức? Do đó, phải chăng khi nói đến kinh tế tri thức là phải nói đến nhiệm vụ điều chỉnh cách vận dụng các quy luật khách quan để khắc phục vết xe đổ mà nhân loại đã mắc phải?

Xã hội nào cũng có tri thức, ngay cả xã hội ăn lông ở lỗ. Tri thức kiểu đó chỉ là kinh nghiệm được đúc kết lại. Người ta, sau đó có thể làm ra thuốc súng, làm ra giấy nhưng chỉ là những khám phá bất ngờ không hiểu nguyên lý. Những kinh nghiệm xã hội biến thành tôn giáo, tư tưởng cổ lỗ học ở khắp mọi nơi đã kìm tỏa sự phát triển của thế giới cả mấy nghìn năm. 

Cho đến khi tri thức đạt được sự thay đổi đột biến. Đó là khi thoát khỏi vòng kìm tỏa của tôn giáo và tư tưởng cổ lỗ, thời đại khoa học đã mở ra đi tìm ra các nguyên lý hay các qui luật của khoa học (về đủ mọi ngành nghề) và trên cơ sở đó phát triển các sản phẩm, công cụ hay phương pháp sản xuất và quản lý nhằm tăng năng suất lao động phát triển kinh tế, đồng thời quản lý và điều hòa quyền lợi cũng như quyền lực của các nhóm quyền lợi khác nhau trong xã hội. 

Như thế, trên cơ sở tinh thần khoa học, mọi vấn đề, mọi cái tưởng dù đã được coi là nguyên lý đều có thể bị đặt lại. Xã hội nào xây dựng được thể chế chấp nhận việc đặt lại vấn đề, cho phép tự do tư tưởng và học thuật, và có cơ hội phát triển sáng kiến thì xã hội đó sẽ tiến nhanh chóng. Xã hội nào đi ngược lại thì rốt cuộc bị buộc chân vào những huy hoàng của quá khứ và thoái hóa.  

(còn tiếp)