Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014
Ðỗ Hải Minh - Đọc Tác Phẩm: CỬU LONG CẠN DÒNG, BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG” của Ngô Thế Vinh
LTS: Dohamide Đỗ Hải Minh là một cây viết quen thuộc trên báo Bách Khoa trước 1975, chuyên khảo về lịch sử và văn minh Chàm. Đã xuất bản năm 2000: “Dân Tộc Champa: Hành trình Tìm về Cội Nguồn”. Xuất thân Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và tốt nghiệp M.A. Đại Học Kansas, Hoa Kỳ. Lớn lên ở miệt Hậu Giang Châu Đốc nên rất am tường về hệ sinh thái Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Mùa
Nước Lên & Mùa nước giựt tại
vùng châu thổ
sông Cửu
Long
Trong nhiều
thập niên trước đây, người dân vùng châu thổ sông Cửu
Long, tức Mekong, đã quen sống với
nạn ngập
lụt hàng năm như là một
hiện tượng
thiên nhiên đến
đều đặn
theo chu kỳ, nên nhà cửa
dọc hai bên sông rạch thường cất
theo kiểu nhà sàn, và chiều cao của
các cây cột
sàn thường được tính toán vừa
cho không ngập
lụt nền
nhà. Chỉ
trừ những
năm Thìn thì hầu
như đã thành thông lệ, mực
nước dâng cao hơn, nhà nhà đều sẵn
sàng sống những
ngày nước ngập
sàn, phải kê cao giường lên để
ngủ, chờ
đến ngày mực
nước hạ
xuống (người địa
phương gọi
là “nước giựt”)
gia đình con cái mới
trở lại
nền nếp
sanh hoạt bình thường.
Do đó, tại
vùng châu thổ
sông Mekong, giới
bình dân thường
quen và bình tĩnh sống
và chịu đựng
với cái gọi
là “mùa nước
lên” thay vì “mùa lũ lụt”
như ở
miền Bắc
hoặc miền
Trung, như được phổ
biến sau này.
Dấu hiệu
báo mùa nước
lên tại vùng châu thổ sông Mekong chủ yếu
là vào khoảng
tháng 8 âm lịch,
từng giề
lục bình hoặc rau muống,
đôi khi choán cả
chiều rộng
con sông, nguyên từ
các cánh đồng
trên đất Cam Bốt
bị nước
ngập, tróc gốc, nối
đuôi nhau trôi chật
sông theo dòng nước
xuống đến
phần đất
Việt Nam.
Mực nước
từ từ
dâng cao rồi
tràn qua các bờ
sông rạch, làm ngập các cánh đồng, cho nên vùng châu thổ có loại
lúa sạ, tăng trưởng theo mực nước
dâng cao có khi đến
7, 8 thước, và khi nước giựt
khô ráo, thân cây lúa nằm
rạp mình trên đất chờ
gặt.
Để tiết
giảm áp lực
nước đổ
xuống, người ta đã đào một
hệ thống
kinh chằng chịt
tại vùng châu thổ sông Mekong đồng thời
khai thác tác dụng
rửa phèn cho vùng đất mới
để canh tác.
Đến mùa nước lên, người
ta phải canh chừng đo mực
nước hằng
giờ để
báo động kịp
thời khi mực
nước vượt
quá mức bình thường các năm trước. Khi áp lực nước
từ thượng
nguồn bớt
đi, thì mực
nước liền
đứng lại
và hạ xuống
rất nhanh cho nên trong bình dân gọi là “nước giựt”
Người ta nói nước giựt,
vì mực nước
hạ xuống
trông thấy rõ từng
phút từng giờ.
Nước lên và nước giựt,
tuy nhiên, không diễn
ra đồng đều
cùng một lúc.
Trên dòng nước
cuồn cuộn
chảy ra các cửa biển,
hễ ở
vùng Châu Đốc
nước giựt
xuống thì vùng Cần Thơ,
Vĩnh Long, v.v. ở hạ lưu
nước lại
bắt đầu
dâng lên, ngập
tràn bờ, tràn đồng,
rồi cũng lại
hạ xuống,
giống như
hiện tượng
xảy ra trong bình thông nhau.
Cùng với con nước đục
ngầu mang theo phù sa, các loại cá lội
theo vào ruộng
đồng đẻ
trứng, cho đến thời
kỳ nước giựt
thì loại nước
cỏ vàng xậm
từ trong đồng
ruộng chảy
ra, vô số cá con lúc nhúc từng đàn, nhứt là loại
cá linh, theo nhau ùa tràn trở
ra các kinh rạch
để ra sông lớn, cho nên dọc theo các kinh rạch này, người ta đóng đáy bắt cá, có thời điểm
cá rộ, lưới
không chịu nổi
phải giở
lên thả cho đi bớt; bằng
không thì sẽ bị lủng
lưới.
Với mùa nước lên và mùa nước
giựt như
vậy, hệ
sinh thái vùng châu thổ
sông Cửu Long được cân bằng
một cách tự
nhiên, và hễ
năm nào mực nước dâng lên cao quá mức bình thường thì người dân thường đơn
giản nghĩ là do thiên tai ngoài tầm vói của
con người.
Hiện tượng
cân bằng sinh thái tự nhiên đó không còn nữa, từ
khi dân số
vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long tăng cao do việc thiết
lập các khu định cư
tiếp đón dân các vùng khác đến sanh sống,
nhiều nơi
đắp bờ
ngăn giữ nước
trồng lúa ngắn ngày gia tăng sản lượng. Ngày xưa,
các thế hệ
tiền nhân đến
lập nghiệp
thường chọn
các khu đất
gò, tại Đồng
Bằng Sông Cửu Long, gọi là “đất
giồng”, nên đến mùa nước lên, các cánh đồng
bát ngát cò bay thẳng
cánh biến thành biển nước
mênh mông, thì đất
giồng này vẫn
là các khu an toàn cho người
dân và cả cho các loài rắn.
Ngược
lại, trong vài thập niên qua, các khu định cư
mới thường chỉ
nhằm vào các vùng đất có điều
kiện cho đồng
bào canh tác, nên khi đến
mùa nước dâng lên, có nơi phải
ngập sâu xuống
cả 2, 3 thước nước,
nên cái mà giới
bình dân thường
quen gọi là “thiên tai” hẳn nhiên phải nặng
nề và tác hại nhiều
hơn. Ngoài ra, điều mà các nhà môi trường học
đã lớn tiếng
kêu gào nhiều
nhất trong những năm gần
đây là nạn chặt
cây phá rừng
bừa bãi; những rừng
cây xanh um từ xưa mang chức năng giữ lại
trong lòng đất
một lượng
nước quan trọng ở
các đầu nguồn
thì nay không còn nữa
hoặc đã biến
thành quá lưa
thưa, nên nước mưa
xuống thì cứ
thẳng chảy
ra, làm tăng khối
lượng nước ngoài dòng sông và hẳn
nhiên mực nước
sông phải dâng cao khi mưa nhiều
ở thượng
nguồn.
Cửu Long Cạn Dòng, một
nghịch
lý?
Nhà văn Ngô Thế
Vinh vừa cho ra đời một
tác phẩm mới
nhan đề khá hấp
dẫn: “Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng” do Nhà Xuất
Bản Văn Nghệ ấn
hành, đã được
các giới thân hữu,
nhứt là Nhóm Bạn Sông Cửu
Long tiếp đón với
rất nhiều
phấn khởi
như là một
đóng góp lớn
cho sanh hoạt
bảo vệ
môi trường.
Nhưng một
câu hỏi có thể
được nêu lên ngay là liệu nhan đề
tác phẩm như
có tiềm ẩn
một cái gì nghịch lý hay không? Bởi
lẽ một
đàng, mực nước ồ ạt
dâng cao và dòng nước
sông Mekong chảy
siết từ
Cam Bốt xuống
phần đất
Việt Nam, trong cuối tháng 9 và đầu tháng 10 năm 2000 vừa qua đã làm cuốn trôi nhiều nhà cửa
kể cả
các nhà sàn dọc
theo các kinh rạch,
đã gây chết
hơn 300 nhân mạng, các cộng đồng
người Việt
hải ngoại,
theo tinh thần
tương thân tương trợ
giữa đồng
bào ruột thịt,
đang vất vả
và tích cực
tổ chức
quyên góp cứu
trợ, tác phẩm
của Ngô thế
Vinh lại nêu lên sự cạn
dòng, có nghĩa là dòng Cửu
Long không còn nước
chảy nữa,
thì nghĩa là sao?
Sự thực,
nạn ngập
lụt khiến
nước tràn bờ,
tràn đồng tại
Đồng bằng
Sông Cửu Long do lượng nước dồn
dập từ
trên thượng nguồn
đổ xuống
là một hiện
tượng xảy
ra hàng năm theo chu kỳ nhứt
định, và kéo dài trong một thời
gian một hai tháng là cùng. Trong trường
kỳ, trái lại,
không phải chỉ
là vấn đề
tràn ngập nước
nữa, mà là vấn đề mực nước
dòng sông Mekong có khuynh hướng
ngày càng hạ
xuống, sẽ
đưa dẫn
đến nguy cơ
cạn kiệt,
một nguy cơ
tác hại quy mô khó lường, khó mà chận đứng
được, và giải
pháp không còn có thể
là tích cực
quyên góp cứu
trợ nhứt
thời nữa.
Khuynh hướng cạn
kiệt nước,
trước mắt,
sau những ngày nước tràn đồng
theo chu kỳ hàng năm, đã được
các nhà khoa học
ghi nhận ở
hiện tượng
vùng nước nhiễm
mặn từ
các cửa Sông Tiền Sông Hậu đang ngày càng lấn sâu vào nội địa,
và dấu hiệu
là các loại
cá chuyên sống
vùng nước lợ
đã bắt đầu
được phát hiện ở một số
vùng trước chỉ
có các loại
cá nước ngọt
sanh sống.
Nạn nhiễm
mặn không những chỉ
diễn ra tại
các dòng sông mà còn thấm
vào lòng đất
khiến các giếng
nước ngọt
đào trong các vùng sâu bên trong cũng sẽ
không còn sử dụng được. Trên các vùng
nước nhiễm
mặn hẳn
nhiên sẽ không còn các giống lúa truyền thống
nữa, và điều
tai hại đang đe dọa trong tương lai là cho đến
nay, chưa có một
giống lúa nào được tạo
được trong các phòng thí nghiệm có thể
thích ứng với
vùng đất nhiễm
mặn cả. Như vậy, liệu
Việt Nam có thể còn giữ
được sản
lượng gạo
xuất cảng
vào hàng nhì thế
giới như
hiện nay hay không? Và trong lâu dài, nếu tình hình xấu đi hơn
nữa, liệu
người dân Việt
trong nước sẽ
còn đủ gạo
để ăn hay không? Đó là những
câu hỏi chủ
yếu mà tác giả với
một thủ
thuật văn pháp kỳ diệu đã lần
đưa người đọc
phải quan tâm tìm hiểu thêm.
Nguyên nhân
hiện tượng
cạn dòng của
sông Mekong có thể được tìm thấy
trước mắt
không phải trong thiên tai, mà trong chính tác
động của
con người.
Để tranh thủ ngoi lên, mỗi nước
nằm trên dòng chảy của
sông Mekong - tất
cả đều
là những nước đang phát triển
- đều cùng muốn làm sao tự sản
xuất nhiều
năng lượng chừng
nào hay chừng
nấy, để
sử dụng
vào công cuộc
phát triển kinh tế
trong đó, nền
kỹ nghệ
được đặt ưu tiên hàng đầu.
Giấc
mơ phát triển này đã và đang thúc đẩy các nước nằm
trên dòng chảy
của sông Mekong đua nhau hình thành các
dự án thiết
lập và xây dựng những
đập nước,
lắp đặt
các nhà máy thủy
điện, tạo
ra nguồn năng lượng than trắng,
nguồn năng lượng giá rẻ
nên tương đối
hấp dẫn
do không lệ
thuộc vào việc
nhập cảng
dầu từ
các nước ngoài hao tốn ngoại
tệ.
Theo công
pháp quốc tế,
giữa các nước có lãnh thổ
liền nhau đều
có phân định
biên giới quốc
gia bắt buộc
công dân và hàng hóa từ nước này sang nước kia phải
tuân theo một
số điều
kiện; riêng về nước trên
con sông thì cứ
theo dòng mà chảy
xuôi chớ không có gì hạn chế
cả.
Tuy nhiên, từ
khi kỹ thuật
thiết lập
các đập nước
được thực
hiện, đòi hỏi
phải ngăn và chuyển dòng sông để đưa
nước vào các hồ chứa
dự trữ
khổng lồ,
được tính toán đều đặn
tháo ra theo lượng
hoạch định,
dùng vận hành các turbin khổng lồ
làm ra điện.
Hậu quả
trước mắt
của công cuộc chuyển
dòng để dự
trữ lượng
nước cho riêng quốc gia mình, hẳn nhiên, chẳng những
làm biến đổi
dòng chảy thiên nhiên mà còn làm giảm khối
lượng nước chảy xuôi
dòng bình thường
từ thượng
nguồn ra biển
cả như từ bao thế
kỷ nay.
Về mặt
này, ai cũng rõ, Trung Quốc
là nước có lợi
thế hơn
cả do lãnh thổ nằm ở vị
trí đầu nguồn
của sông Mekong, và trên thực tế,
Trung Quốc, từ
vài thập niên qua, đã triệt để
khai thác vị
trí tối thuận
lợi của
mình để xây dựng
một loạt
các con đập
bậc thềm,
bất kể
quyền lợi
của các nước ở hạ lưu. Kế
tiếp, theo thứ tự,
các nước Miến
Điện, Thái Lan, Lào rồi Cam Bốt,
và Việt Nam là nước nằm ở cuối
nguồn hẳn
nhiên phải chịu
thiệt hơn
cả.
Theo những điều
trình bày trên, sự ra đời
của tác phẩm
“Cửu Long Cạn
Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng” thoạt
nhận thì thấy
hình như là một
nghịch lý, trước nạn
lũ lụt hoành hành tại vùng châu thổ sông Cửu
Long, dấy lên những
phong trào rầm
rộ cứu
lụt trong các cộng đồng
người Việt
hải ngoại. Nhưng
khi đặt vấn
đề dòng sông Mekong trong một bối
cảnh quy mô toàn vùng và trong lâu dài
có nguy cơ cạn kiệt,
thì tác phẩm,
nói chung, phản
ánh một nỗ lực thu hút mọi người quan tâm đến
một ngày mai, xây dựng một
viễn tượng
đúng đắn về địa lý chánh trị học
(geopolitics) mở rộng tầm
nhìn mang tính chiến
lược soi sáng tiềm năng khả dụng
cùng những mặt
hạn chế,
nhứt là của
các nước nằm ở hạ lưu, trong việc khai thác nguồn nước
sông Mekong phục
vụ phát triển kinh tế, trước
chánh sách ngạo
mạn nước
lớn của
Trung Quốc ở
trên thượng nguồn.
Cửu Long cạn Dòng, Biển Đông dậy Sóng
Trong bối
cảnh kể
trên và qua cách trình bày, người
đọc có thể
nhận ra ngay, tác phẩm
“Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng”, dày 646 trang, không phải là tác phẩm thuộc
dạng tiểu
thuyết hay truyện như
“Mây Bão”, “Bóng Đêm”, Gió Mùa”, “Vòng Đai Xanh”, “Mặt Trận
Ở Sài Gòn” đã xuất bản
trước đây, nguyên đã tạo nên một
thế đứng
vững chắc
được nể
trọng cho Ngô Thế Vinh trong văn giới trong những năm qua.
Về cấu
trúc, sách được
phân chia thành 23 chương
cọng thêm những trang “Lời Dẫn
Nhập”, một
phần Phụ
lục về
“Ký Họa Đoàn Thám Hiểm Sông Mekong 1866-1873”, và đoạn “Thay Lời Kết”
ở những
trang cuối cùng.
Ở cuối
đoạn “Dẫn
Nhập”, tác giả ghi “Cà Mau Năm Căn 11/99”, thoạt nhận,
có thể làm người đọc
không am tường,
hiểu lầm,
cho là tác phẩm
xuất xứ từ trong nước. Thực sự,
địa danh Cà Mau - Năm Căn chỉ phản
ánh quá trình hình thành tác phẩm
bao gồm cả
chuyến đi khảo
sát thực địa
tận trong nước
thể
hiện qua những
hình ảnh rất
phong phú, sống
động in ở
sau mỗi chương sách, bên cạnh
những hình ảnh
của những
thời xa xưa
nói lên những
cuộc tra cứu
tư liệu
rất công phu, đòi hỏi nhiều
thời gian vật
chất, ghi lại
những nguồn
tham khảo vẫn
tưởng đã bị
dòng thời gian chôn sâu vào quên lãng.
Để tiện
cho người đọc
theo dõi và vị
trí hóa các sự
kiện lịch
sử về
con sông Mekong, ngay ở
phần đầu,
tác giả đã cẩn
thận lập
ra bảng kê các niên biểu trải
rộng qua 7 quốc gia, từ
thế kỷ
thứ I mãi đến
năm 2000 là năm hoàn thành cây cầu
Mỹ Thuận bắc
qua Sông Tiền,
gợi lên một
tầm nhìn khoáng đạt, bao quát chớ không nhứt thiết
giới hạn
trong một khung địa lý thu hẹp ở một địa
phương.
Tác phẩm “Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng” được hình thành theo một thể
tài khá lý thú và độc
đáo. Theo giải
bày của Ngô Thế
Vinh trong Lời
Dẫn Nhập,
thì “đây không thuần
túy là một cuốn
‘tiểu thuyết
– fiction’ được
hiểu như
là một sản
phẩm của
tưởng tượng, nhưng
là dạng “dữ
kiện tiểu
thuyết – faction: fact & fiction” với
một số
nhân vật văn học
và phần dự
phóng là hư cấu để
cùng với người đọc
đi tới những
vùng đất, nơi
có con sông Mekong hùng vĩ chảy
qua...”
Mô thức dữ
kiện tiểu
thuyết là một
sáng tạo độc
đáo, duy nhứt,
của nhà văn Ngô Thế Vinh, chắc chắn
sẽ được
đón nhận một
số tranh luận, mở
ra những cuộc
trao đổi sẽ rất lý thú trong văn học sau này.
Hình như
dụng ý của
tác giả, chủ
yếu nhằm
khơi lên vấn
đề từ
chi tiết tạo
nên một khung lý luận, đưa
người đọc
vào một số
tình huống phải
suy nghĩ, phải
quan tâm đến
một chủ
đề bao quát lớn lao hơn
bao trùm toàn bộ
tác phẩm: dòng sông Mekong dưới tác động
tai hại của
các công trình thủy
điện, mỗi
nước dựa
vào chủ quyền
quốc gia cứ
tùy tiện xây dựng,
hầu hết
chỉ tập
chú vào sản
lượng điện
năng, xem nhẹ
hoặc xem như
không có các tác hại
lâu dài về
môi sinh, những
tệ trạng
về mọi
mặt mà người dân trong vùng phải
gánh chịu.
Ngô Thế
Vinh không đóng khung vấn
đề trong nội
vi một nước,
mà còn cảnh giác về các tác hại của
tiếp cận
theo lối khép kín đóng cửa rút cầu
này. Ngoài ra, Ngô Thế
Vinh còn làm hiện
rõ mối đe dọa
cố hữu
của nước
lớn Trung Quốc ở đầu nguồn
đang lạnh lùng hành động khống
chế các nước ở hạ lưu,
về mặt
sử dụng
lượng nước, về
các chất thải
kỹ nghệ
âm thầm chảy
xuống từ
tỉnh Vân Nam nơi thượng nguồn...
Mỗi chương sách được
đặt tên đôi khi nghe rất thi vị
nhẹ nhàng nhưng thực
chất là khai triển một
đề tài gợi
lên cho người
đọc rất
nhiều xúc cảm
phê phán gay gắt. Chẳng
hạn như
Chương XIV ghi là “Chuyến Tàu Lỡ
Trên Sông Mekong Và Con Cá Đuối
Trong Tỉnh Đồng
Tháp”, thực
sự nội
dung là vạch
trần một
cách thấm thía thái độ thiển
cận của
những viên chức chánh quyền Cộng
Sản
có trách nhiệm
đã không cấp
phép cho nhà thám hiểm
biển sâu người Pháp, hầu
như độc
nhất vô nhị,
nổi tiếng
trên thế giới
là Jacques-Yves Cousteau, xin mang chiếc
tàu ngầm thám hiểm tý hon Calypso đi ngược dòng Mekong thu thập dữ
kiện khoa học.
Jacques-Yves Cousteau nay đã qua đời
nên Việt Nam đã mất đi cơ
hội bằng
vàng để bổ
sung phần hiểu
biết khoa học
vốn đã nghèo nàn về hệ
sinh thái con sông Mekong!
Chương XXII mang tên “Tìm Về Phương
Đông Địa Đàng Lại
Đánh Mất” khêu gợi óc tò mò của
người
đọc, để
lần theo các trang sách, từ từ
phát hiện ra địa
đàng chính là nền
văn hóa cổ
thời Đông Nam Á, với những
dữ kiện
mới được
khám phá gần
đây, những
khu rừng mưa
trên Cam Bốt,
hệ thống
thủy lợi
và giao thông trên vùng Ốc
Eo châu thổ
sông Mekong.
Từ chương
này sang chương
khác, tác giả
đã lần đưa
người đọc
đi qua các vùng đất các nền
văn minh những
nơi con sông Mekong chảy qua, bắt
đầu từ
vùng đầu nguồn
ở Tây Tạng
rồi sang Vân Nam Miến Điện,
qua Thái Lan, di chuyển
qua Khu Tam Giác Vàng và lãnh thổ
Lào với Cánh Đồng
Chum. Từ
những ngày ở
Singapore, tác giả
đã đưa người đọc
về đất
Cam Bốt với Cánh
Đồng Chết
thời Pol Pot, rồi mới
quay về với
vùng đất mẹ
Việt Nam khốn
khổ,
đến Bến
Tre, Cái Bè, đến
vùng Tràm Chim Tam Nông đầm
lầy rồi,
rồi trở
qua đất Lào, Cam Bốt, đi vào vùng Biển Hồ
Tonlé Sap kỳ thú, rồi
lại quay trở về
Nam Việt Nam... Mỗi chương là một
đề tài được nêu lên và phân tích theo những góc cạnh
tiếp cận
vô cùng phong phú và đa dạng,
không chương nào giống chương nào cả. Tuy khác nhau về
tình tiết, nhưng
giữa các chương, như
tác giả đã trình bày, được gắn
liền bằng
một dòng tư
tưởng nhất
quán, vẽ
lên những bức
tranh thường là đen tối đè nặng
lên dòng sông Mekong do thảm
trạng các nước đua nhau thực
hiện các công trình xây dựng đập
vận hành các nhà máy thủy điện,
chặn giữ nước
và làm ô nhiễm
lượng nước từ
thượng nguồn.
Trong quá
trình triển
khai nội dung từng
chương, tác giả thường
tận dụng
cơ hội
cung ứng những
dữ kiện
và thông tin quý báu, được
minh họa bằng
các hình ảnh
sống động
của nhiều
thập niên trước về lịch sử,
về văn hóa hoặc văn minh cổ thời ở địa
phương, như Phù Nam, Ốc
Eo, Champa, Tây Tạng... Qua các trang sách và hầu như
đã thành một
quán tính có thể
nhận thấy
rõ, không đề cập thì thôi, nhưng hễ
đi vào một vấn
đề nào, Ngô Thế Vinh hầu
như đi vào rất sâu, cung ứng rất
nhiều dữ
kiện, nhiều
bằng chứng lý thú, thúc đẩy
người đọc
càng đọc càng thích thú, đến một
đoạn nào đó, có thể như
“quên đường về”. Tuy nhiên, trong lúc tiến tới
say mê như vậy, và có khi đã thấy vừa
đủ liều
lượng, Ngô Thế Vinh, ở
nhiều đoạn
sách,có thể đột
ngột bẻ
tay lái sang lane chớp
nhoáng chuyển
sang một vấn
đề khác không có chút bịn rịn
nào cả. Trong một phút giây nào đó, người đọc
bất ngờ
bị cảm
thấy như
hụt hẫng,
chới với đi
vào một vấn
đề khác.
Và mỗi
lần như
vậy, người đọc
không thể làm gì khác hơn là từ
từ lật
ngược lại
các trang đã qua, để hệ thống
hóa lại nội
dung, trước khi thưởng thức
tiếp các trang sách. Chừng
đó, người đọc
mới cảm
thấy được
bút pháp điêu luyện
của tác giả
và xác định rõ, tác phẩm “Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng” đúng như được ghi nhận
là “đầy ắp
tư liệu”
có giá trị lịch sử
và cả giáo dục
nữa, không thể đọc
phơn phớt
để thưởng
thức như
là một quyển
tiểu thuyết
bình thường được.
Chính trong
những điều
kiện kể
trên, mới nổi
bật lên và như in sâu vào tâm trí người đọc
những sự
kiện lịch
sử của
một thời
xa xưa mà người ta không thể
quên được về
con sông Mekong, chẳng
hạn như
thông tin về
chuyến đi thám hiểm của
Francis Garnier, Doudard de Lagrée ngược
dòng sông Mekong để
tìm thủy lộ
giao thương từ
Sài Gòn sang Trung Hoa; về số phận
tiêu vong của
loại cá hiếm
Pla Beuk, Dolphin trên dòng sông Mekong...
Thông tin lý thú nhứt
có lẽ là mặc
dầu con sông Mekong được vẽ
trên mọi bản
đồ thế
giới, nhưng
chỉ mới
đây thôi, chỉ vào năm 1994, người ta mới
chánh thức xác định
được tọa
độ chính xác điểm khởi
nguồn của
sông Mekong nơi
một địa
điểm hoang vắng nhứt
của cao nguyên Trung Á.
Như tên tác phẩm đã phân định, rõ ràng có hai vế chủ yếu được
đề ra ở
đây. Vế “Cửu
Long Cạn Dòng” là tiếng kêu cảnh
giác về nguy cơ
xảy đến
trong một tương
lai gần kề
cho dòng sông Mekong khi mỗi quốc
gia nằm trên dòng sông chỉ nhằm
nhu cầu phát triển nguồn
thủy điện
cứ tiếp
tục xây dựng
đập, không cứu xét đúng mức các hậu
quả tai hại
về môi sinh cho dân chúng trong vùng và
cả dân chúng các quốc gia ở
vùng hạ lưu.
Ngô Thế Vinh đứng
trên quan điểm
môi sinh, nên nêu vấn
đề nặng
về khía cạnh
nhân bản, đòi hỏi
những nguồn
lợi kinh tế,
trên cấp bậc
quốc gia, thu thập được
do các con đập
không thể hy sinh quá đáng về những
điều kiện
sống bình thường của
người dân trong vùng được.
Nhân dịp này, tác giả đã thẳng
thắn vén lên bức màn huyền thoại
lâu đời của
các định chế
quốc tế
chuyên trách tài trợ
các dự án phát triển, cụ
thể là Ngân Hàng Thế Giới
– World Bank, Ngân hàng Phát Triển
Á Châu _ Asian Development Bank , thường
thấy thuận
lợi hơn
khi hợp tác với
các chánh quyền
độc tài địa
phương, viện
lẽ các chánh quyền này có đủ điều
kiện duy trì ổn định
chánh trị cần
thiết để
tiến hành các dự án xây đập, luôn luôn đòi hỏi phải
tổ chức
di chuyển dân chúng sống trong vùng bị chôn sâu dưới khối
nước dự
trữ ở
các hồ chứa.
Trong vấn đề
dòng sông Mekong, một
nước Trung Hoa to lớn đang ngự trị ở thượng
nguồn, độc
quyền nắm
thế thượng
phong, lặng lẽ
xây dựng hàng lọat đập
thủy điện
bậc thềm,
biến các đoạn
dòng sông Mekong thành ô nhiễm
quá mức do chất
thải của
các nhà máy kỹ
nghệ nằm
dọc theo bờ
sông, mà không có một
biện pháp xử
lý nào cả;
Việt
Nam và Cam Bốt
là các nước nằm
dưới vùng hạ
lưu hẳn
nhiên sẽ phải
lãnh đủ các hậu
quả ô nhiễm
này.
Để được
tự do hành động cho quyền lợi
riêng mình, Trung Quốc
luôn luôn né tránh, không bao giờ
muốn thành hội viên Ủy
Hội Sông Mekong, và đây có thể là một
phát hiện kỳ thú của tác phẩm,
ít được dư
luận thế
giới quan tâm: Trung Quốc đã cho phá vỡ các khối
đá khổng lồ
để tạo
ra một dòng sông chảy xuống
đến đất
Lào. Khuynh hướng bá quyền của
Trung Quốc đã được củng
cố thêm do bởi chủ
trương bành trướng lãnh thổ ở
vùng Biển Đông được tác giả
phân tích tại
chương XV là chương mang tên được dùng làm tên tác phẩm: “Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng”, đặc biệt
triển khai vế
thứ 2 của
tên sách (Biển
Đông Dậy Sóng) hàm ý nhắc đến
biến cố
Hoàng Sa (Paracel) năm 1974 và Trường
Sa (spratly) năm 1988 – vết
thương hằn
sâu khó lành của
mọi người dân Việt
- từ đó, ghi nhận những
khía cạnh của
chủ trương
bá quyền của
Trung Quốc trong vùng Đông Nam Á. Trong bối
cảnh đầy
đe dọa về
lãnh thổ và lãnh hải ngoài Biển Đông, nhân vật Hộ
(trang 476) chắc
hẳn đã làm nhiều người đọc
bàng hoàng khi khẳng
định: “Từ
hơn một thập niên qua, việc đơn
phương chuyên quyết tiến
hành xây chuỗi
7 con đập bậc
thềm
khổng
lồ Vân Nam, trên thực tế
Trung Quốc đã phát động một
cuộc chiến
tranh môi sinh không tuyên chiến
với 5 nước nước
hạ nguồn
sông Mekong.” Nhưng đối
lại và gợi
nhớ tinh thần
bất khuất
của mọi
người dân Việt
Nam, Ngô Thế
Vinh đã cho ghi ở đầu chương các vần
thơ cảnh
cáo bất hủ của Lý Thường Kiệt:
Nam quốc sơn
hà Nam đế cư, Tiệt
nhiên định phận
tại thiên thư...
Như tác giả
xác định, các nhân vật trong tác phẩm đều thuộc phần
hư cấu,
nhưng lối
xây dựng hư
cấu của
Ngô Thế Vinh thực
sự đã tạo
cảm giác như
phảng
phất đâu đây hình ảnh, phong cách một số mẫu nhân vật
có thật ngoài đời.
Đó là ông Khắc,
một nhà báo lão thành, cộng tác với
tờ báo Mỹ
chuyên trách các đề
tài về Đông Nam Á và Việt Nam; Cao thuộc Nhóm Bạn
Cửu Long thường xuất
hiện nhiều
trong các chương
sách, phát biểu
tầm nhìn bao quát có giá trị chiến
lược lâu dài về môi sinh; Duy là một
thanh niên gốc
Bắc, lớn
lên trong Nam, tốt
nghiệp Đại
học Mỹ,
có nhiều công trình đăng ở tập
san y khoa nổi
tiếng, bên cạnh có Bé Tư, một
cô gái thông minh sâu sắc,
nhưng rất
chính chắn, được Ngô Thế
Vinh đệm thêm một
vài nét phác họa
tình cảm với
Duy để gây chút thơ mộng
trong câu chuyện
dòng sông Mekong...
Các nhân vật này tạo
thành chất kết
dính các sự
kiện, được gắn
vào các vai trò dấn
thân vì môi sinh, tham quan, tham dự
các hội nghị,
trao đổi... được tác giả lồng vào những phát biểu sâu sắc,
chứng tỏ
thẩm quyền
trong lãnh vực
chuyên môn có liên quan, khi thì mang
tính nhận định
hoặc quan điểm, khi thì phê phán cần thiết
ở trong các tình huống thích hợp liên quan đến dòng sông Mekong. Những
nhận định
và phê phán này thường
nhẹ nhàng trong phong cách lịch sự
trí thức, nhưng
khi cần thì cũng rất khe khắt,
chẳng hạn
như đối
với cuộc
thảm sát quy mô thời Pol Pot, chủ trương
cáp duồn thời
Lon Nol ở Cam Bốt
những mặt
tiêu cực của
chánh sách Đổi
Mới tại
Việt Nam, hậu
quả tiêu ma cho Tràm Chim vùng Tam Nông,
một số
loài vật quý hiếm
trên thế giới
có nguy cơ bị diệt
chủng... Ngô Thế Vinh cho thấy đã thận
trọng duy trì liều lượng
vừa phải
để những
người nhất
là những chức
quyền
có liên quan vẫn
còn lắng tai nghe được và để
cho nội dung thẩm thấu
một cách từ
tốn theo trình độ hiểu
biết của
họ.
Có một điều
gợi lên cho người đọc
chút xót xa cho đất
nước Việt
Nam trong hoàn cảnh
hiện tại
là các nhân vật
thuộc hàng chuyên gia Ngô Thế Vinh xây dựng trong tác phẩm
thì hoặc thuộc
thế hệ
lão thành, hoặc
thế hệ
trẻ mới
vươn lên, nhưng hầu
hết đều từ nước
ngoài đi vào quê mẹ. Dù vậy, tác giả
cũng đã không để
cho họ cảm
thấy như
là những người xa lạ
trên quê hương
mình, bất chấp
các thủ tục
vụn vặt,
chẳng hạn
như phải
khai báo với
công an địa
phương (chi tiết phiền
hà này không có ghi trong tác phẩm). Đến
khi sang nước
khác tiếp xúc với
chuyên viên như Cham Sak chẳng
hạn là chuyên viên đang sanh sống hành nghề tại
chính nước Thái Lan chánh gốc của
mình, họ phát biểu
một cách hồn
nhiên trên cơ sở là chuyên gia Việt Nam với
nhiệt huyết
phục vụ
môi sinh, phục
vụ đất
mẹ Việt
Nam của họ.
Được trang bị vốn
hiểu biết
kỹ thuật
chuyên môn cùng kinh nghiệm
thu thập ở nước ngoài, các nhân vật chuyên gia Việt Nam này cũng mang theo về nước
tầm nhìn bao quát có tính chiến lược
lâu dài và phương
pháp xử lý bám sát tinh thần đối
chiếu khoa học,
hẳn nhiên phải khác và đôi khi còn đối nghịch
với cả
cách nhìn không tự
thấy là cục
bộ của
nhân vật Mười
Nhe mà Ngô Thế
Vinh đã xây dựng
phản ảnh
một cách trung thực tài tình mẫu hình cán bộ Cộng
Sản trung kiên có thể tìm thấy
ở nhiều
nơi tại
vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long.
Ngay cái tên
Mười Nhe cũng đã gợi lên chút tính trào lộng, ai cũng tưởng rằng
ông Mười Nhe này luôn luôn ...nhe răng cười, nhưng
sự thực,
Mười Nhe đã được Ngô Thế
Vinh mô tả
“vóc người ốm
nhỏ, có nước da sạm
đen hơi tái của
người thiếu
máu kinh niên , khuôn mặt
xương xẩu
vẻ cằn
cỗi và khắc
khổ...” là hình ảnh hiếm
hoi của những
người Cộng
Sản chân chính còn sót lại, trong chức vụ
Huyện Ủy
Tam Nông, đã tích cực
thực thi chánh sách đổi mới
bằng “kế
hoạch ngũ niên tự phát”, nâng dân số Huyện
lên gấp đôi, mang lại cho đồng
bào một đời
sống sung túc trong một thời
gian kỷ lục.
Ông Mười Nhe đã cho chặt phát rừng
tràm thả cửa,
đánh cá không phải
chỉ bằng
lưới mà cả
bằng chất
nổ, bắt
tất cả
cá tôm các cỡ,
cỡ nhỏ
không bán thì để nổi lều
bều trên mặt
nước, người dân không mấy
chốc đều
khá giả. Nhưng
hậu quả
là, diện tích rừng
tràm nổi tiếng
phong phú thì nay chỉ
còn một phần
ba, cả ngàn con hạc quý hiếm
nay chỉ còn khoảng
500 con! Mười Nhe vui và hãnh diện
với thành tích vượt bực
của mình trong công trình đưa Huyện
nhà đi lên, (tác giả
không có ghi khẩu
hiệu “tiến
nhanh tiến mạnh
lên chủ nghĩa xã hội”) nhưng
làm sao để đưa vào đầu
con người cán bộ
già nua và thủ cựu này khái niệm vùng đầm
lầy và tràm chim là một kho tàng phong phú về sinh học,
là cái nôi của
chu kỳ sinh sản
và tăng trưởng
cho nhiều giống
cá và các loài sinh vật
khác? Thiếu
học và cuồng
tín vẫn còn là “nguyên nhân nỗi khổ
không phải chỉ
trên những con người mà còn với đám chim muông và cây cỏ”, một
khía cạnh của
thảm trạng
của dòng sông Cửu Long mà Ngô Thế Vinh đã nêu lên một cách vô cùng thắm thía cho những ai còn có chút suy tư.
Người ta phát hiện ông Mười Nhe có một
đứa con trai tên Thuận theo học
trên tỉnh được Mười
Nhe kín đáo tự
hào, nhưng bị
cho là “chỉ
biết có sách vở, cùng bày đặt nói tới
nói lui chuyện
tào lao môi sinh môi tử.” Qua sự bảo trợ
của Bé Tư,
Thuận được
Hội Hạc
Quốc tế cấp học
bổng du học. Theo thời
trang, Thuận
đã chọn đi Mỹ
và đang cố gắng hết
sức mình để
đạt mức
bắt buộc
550 điểm môn Anh văn, cho nên người
ta chỉ trông chờ một
lớp người trẻ
như Thuận
thay thế những
người như
Mười Nhe đến
tuổi phải
nằm xuống
dưới đáy mồ,
trong tương lai thế hệ
trẻ trong và ngoài nước mới
cùng chân thành truyền
đạt cho nhau trên cùng một băng tần,
cùng kết hợp
nhau xử lý các vấn đề
môi sinh dòng sông Cửu
Long mà thôi.
Nhưng không, thời gian chờ đợi ấy sẽ
có thể rất
xa, và nhân vật
Bé Tư dù sao cũng chỉ là một
hư cấu
mang tính lý tưởng; ngoại
trừ là trong dòng tộc, còn thì rất khó mà thiết lập
quan hệ gắn
bó với Thuận
như
thế
trên thực tế được.
Ngô Thế Vinh đã có cách xử lý thiết
thực và vô cùng tuyệt diệu
để thay đổi
cách làm ngay của
Mười Nhe: cho một đồng
chí từ cấp
trung ương Đảng
khêu gợi lại
cho Mười Nhe lòng căm thù, nêu lý do mất cảnh
giác về an ninh quốc phòng – “phá hoại hết
rừng tràm là phá hoại chiến
khu...” (trang 200).
Qua 645 trang sách, tranh của Nghiêu Đề, mẫu
bìa của Khánh Trường, Cao Xuân Huy trình bày nội dung, được minh hoạ bằng
hàng loạt hình sinh động, một
số có giá trị lịch
sử, tác phẩm
Cửu Long Cạn
Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng” của Ngô Thế
Vinh đã đưa
người đọc
đi từ thượng
nguồn ở
Tây Tạng, vượt qua các ghềnh
thác và sóng gió của
lịch sử
từng quốc
gia mới xuống
đến vùng châu thổ ra các cửa sông tỏa
nước ra biển.
Dưới thể
tài theo mô thức
“dữ kiện
tiểu thuyết”
độc đáo, duy nhứt, của
bản thân Ngô Thế Vinh, tác phẩm quả
thật đã thể
hiện một
công trình nghiên cứu
công phu theo chiều
sâu cặn kẽ của từng
vấn đề
nêu lên, đánh dấu
một đỉnh
cao trong văn nghiệp
Ngô Thế Vinh.
Giá trị
căn bản của
tác phẩm là đã thành công, xuyên qua các dữ kiện,
cung ứng những
thông tin giá trị
vô song về
quá khứ sóng gió của từng
khu vực dòng sông Mekong chảy qua, để
từ đó đưa
dẫn người đọc
làm quen rồi
tiếp cận
với các vấn
đề môi sinh được đặt
cho toàn vùng, và xây dựng
một tầm
nhìn chiến lược
bao quát, thoát khỏi
những vứơng bận
cục bộ địa phương chỉ
biết có riêng mình.
Do thái độ ngạo
mạn đàn anh của Trung Quốc một
mặt răn đe xâm lược ở mặt Biển
Đông, một mặt
nắm quyền
quản lý khép kín, thao túng ở đầu
nguồn, dòng sông Mekong đang thực sự đối diện
với một
tương lai đầy
bất trắc
do nạn xây đập
không có bàn thảo
phối hợp,
chia xẻ quyền
lợi hợp
lý, cân bằng
sinh thái với
các nước khu vực
hạ lưu.
Tác phẩm đã làm nổi bật
một số
chủ điểm,
đơn giản
hóa một số
hiểu biết
chuyên sâu, để
xây dựng
ý thức
chung về các tai họa có khả
năng xảy đến,
cụ thể
là nguy cơ
dòng sông Mekong cạn
kiệt, nạn
nhiễm mặn
đang lan dần
vào nội địa
quốc gia ở
hạ lưu
– lại chính là Việt Nam.
Tác phẩm “Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy
Sóng” của Ngô Thế
Vinh gióng lên tiếng
chuông báo động
về các nguy cơ kể
trên. Mong tiếng chuông báo động này sẽ
vang xa, tập
hợp một
lực lượng
nhân sự ngày một
đông đảo, huy động
trí tuệ cùng góp sức giải
quyết các vấn
đề môi sinh chủ yếu
đã được nêu lên cho dòng sông Mekong nói
chung và cho phần
hạ lưu,
châu thổ sông Cửu
Long nói riêng tại
Việt Nam.
ĐỖ HẢI MINH
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét