Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014
Phạm Cao Dương - Một chút tài liệu để chia sẻ nhân ngày 30 tháng Tư
Đảng Lao Động và Chủ Trương Chiếu
Cố Miền Nam: Chiến Tranh Phát Xuất
Từ Đâu, Từ Bao Giờ, và Được Chỉ Đạo Từ Đâu?
Đây không phải là một bài viết theo
nghĩa bình thường mà chỉ là những ghi chú liên hệ tới nguồn gốc của cuộc Chiến
Tranh Đông Dương Lần Thứ Hai hay là Chiến Tranh Việt Nam gọi theo người Mỹ. Người viết xin gửi tới các bạn đọc nhân ngày
Quốc Hận 30/4/2014. Những ghi chú này được trích từ
tập tài liệu nhan đề Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước 1954-1975,
Những Sự Kiện Quân Sự, do Nhà Xuất Bản
Quân Đội Nhân Dân, Học Viện Quân Sự Cao Cấp, Ban Tổng kết Kinh Nghiệm Chiến
Tranh ấn hành ở Hà Nội năm 1980. Năm 1980 là năm cuộc chiến Trung - Việt hay cuộc
chiến giữa hai nước Cộng Sản anh em Việt-Trung vừa mới bùng nổ năm trước. Mục
đích của những ghi chú này là để cung cấp cho bạn đọc một số những tài liệu do
chính nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội đương thời phổ biến liên hệ đến chủ trương
của Đảng Cộng Sản Việt Nam và phần nào chủ trương của các nhà lãnh đạo Trung Quốc
trong tiến trình xâm lấn miền Nam ngay từ ngày 18/7/1954, hai ngày trước khi Hiệp
Định Genève được ký kết cho đến ngày 20/12/1960, ngày Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam được thành lập “với cương lĩnh và đường lối” không do những người
lãnh đạo mặt trận này đề ra mà là do Đảng Cộng Sản đề ra. Tất cả đều xuất phát
và điều động từ Hà Nội. Để tiện cho người đọc theo dõi, người viết xin ghi theo
thứ tự thời gian từng năm. Tất nhiên vì những tài liệu này được phổ biến vào thời
điểm chiến tranh Trung-Việt, do nhu cầu của chiến tranh nên tất cả cần phải được
phối kiểm với những nguồn tài liệu được ấn hành và phổ biến bởi phía những người
Cộng Sản sau này, đặc biệt là các văn kiện đảng. Người viết cũng chỉ làm công
việc ghi chú để gửi tới bạn đọc. Quyền nhận định hay phê phán là để dành cho từng
bạn đọc. Có điều lá bài đã được chính
người chơi kiêu căng, tự mãn, lật ngửa
và cả thế giới đương thời một lần nữa mới thấy mình bị lừa. Lần thứ nhất bị lừa
là
vào giữa thập niên 1940 của thế kỷ trước đúng như Vua Bảo Đại nói với Học Giả
kiêm Thủ Tướng Trần Trọng Kim là “Chúng
ta già trẻ đều bị lừa” mà nguời viết sẽ trình bày cặn kẽ, chi tiết hơn
trong tác phẩm sẽ xuất bản trong năm 2015 tới để kỷ niệm biến cố Mùa Xuân 1945
khi Đế Quốc Việt Nam và Nội Các Trần Trọng Kim được thành lập, một biến cố quan
trọng đã bị người sau này bỏ quên hay cố tình không nói tới.
Sau
đây là những ghi chú, xin gửi tới bạn đọc:
Năm 1954
1.
Hội Nghị Trung Ương Đảng lần thứ 6 nhóm họp từ ngày 15 đến ngày18 tháng 7 năm 1954,
vài ngày trước ngày Hiệp Định Đình Chiến Genève được ký kết. Hồ Chí Minh báo
cáo chính trị về tình hình mới và nhiệm vụ mới: “Đế Quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông
Dương”.
Hội
nghị ra phương châm: “Chĩa mũi nhọn đấu
tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp…” tr. 7
2.
Bộ Chính Trị ra “Nghị quyết về tình hình
mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”, ngày 5/7/1954. Bốn đặc điểm
mới được nêu lên với đặc điểm thứ tư, từ phân tán sang tập trung: “Trước kia mang nặng tính chất chiến tranh
du kích nay tình hình đã biến đổi, yêu cầu ta phải tập trung thống nhất lãnh đạo
xây dựng kiến thiết miền Bắc, chỉ
đạo công tác miền Nam.”(tr.11),“Cho nên tăng cường quân đội nhân dân là nhiệm
vụ quan trọng của Đảng, Chính phủ và của toàn thể nhân dân ta”,“phải lãnh đạo
nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt
cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến quân của địch, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành
được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở vùng căn cứ địa và du kích cũ của
ta…”,(tr. 12)
Năm 1955
Hội
Nghị Ban Chấp Hành Trung ương Đảng lần thứ bảy, từ ngày 3 đến ngày 12 tháng 3
năm 55, nghị quyết: “Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối
với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, miền Nam có vai
trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc và bè lũ
tay sai để giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân chủ
nhân dân.” Hồ Chí
Minh: “Miền Bắc là cái gốc.”(tr.17).
Tháng 10, 1955: Trung Ương Đảng chỉ thị cho miền Nam: “Đối với bọn đương chống Diệm hiện nay như
Hòa hảo, Bình Xuyên, Cao Đài ở Nam Bộ, Đại Việt ở Quảng Trị, QĐD ở Quảng Nam,
chúng ta cần nhận định rõ tính chất của chúng chống Diệm là vì quyền lợi, địa vị
bản thân của chúng, nhưng chúng cũng đều chống ta và bọn nào cũng có nhiều hành
động tàn ác đối với nhân dân. Nhưng hiện nay chúng đều chống Diệm, nên chúng ta
phải triệt để lợi dụng mâu thuẫn mà lôi kéo chúng…” tr. 19
10/09/55: Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất họp tại Hà Nội thành lập Mặt
Trận Tổ Quốc để “tiếp tục sự nghiệp đoàn
kết toàn dân” của Mặt Trận Liên Việt với Tôn Đức Thắng làm ChủTịch và
98 ủy viên, Hồ Chí Minh làm ChủTịch danh Dự.
Năm 1956
Nghị quyết của Bộ
Chính Trị: “Vấn đề hết sức quan trọng là
phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng”, lần này đã đặt vấn đề “đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa” (tr.28-29) và nhận định rằng “việc củng cố đảng ở miền Nam là một trọng
tâm công tác có tính chất quyết định.”
Tháng 8 năm
1956, Lê Duẩn (Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng đang công tác ở miền Nam) viết
tài liệu về đường lối cách mạng miền Nam nhan đề “Đường Lối Cách Mạng Miền Nam” cũng xác định mục đích của đường lối
này là “phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ-Diệm và
đánh đổ bằng con đường cách mạng.” (tr. 30-31).
Tháng 12 năm 56,
Xứ Ủy Nam Bộ họp để chấp hành Nghị Quyết của Hội Nghị Chính Trị Bộ tháng 6,
1956: “Con đưòng tiến lên của cách mạng
miền Nam phải dùng bạo lực tổng khởi nghĩa giành chính quyền”,(tr. 33), bằng
cách: “Tích cực xây dựng lực lượng vũ
trang tuyên truyền, lập các đội vũ trang bí mật, xây dựng căn cứ ở rừng núi,
tranh thủ vận động, cải tạo tập hợp các lực lượng giáo phái bị Mỹ-Diệm đánh
tan…”
Trên đây là những
nhận định và hành động từ phía Cộng Sản Việt Nam. Từ phía Trung Cộng thì các
lãnh đạo của Trung Cộng đã có những cái nhìn ngược lại. Tài liệu này ghi: “Những người cầm quyền Trung Quốc khuyên ta trường
kỳ mai phục”.
Đặng Tiểu Bình,
Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tháng 7 năm 55 gợi ý: “Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất đất nước sẽ có hai khả năng: một
là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc.”(tr. 34-35)
Mao Trạch Đông, tháng 11, 56 nói rõ hơn:”Việc chia cắt nước Việt Nam không thể giải
quyết trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ…Nếu mười năm chưa được thi
phải trăm năm.”
Nhận
định về những khuyến cáo này, các tác giả của tài liệu viết: “Đường lối trên đây bộc lộ rõ âm mưu của
Trung Quốc muốn ta hạn chế đấu tranh cách mạng, duy trì lâu dài tình trạng chia
cắt Việt Nam, sợ đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, muốn dùng miền Bắc làm khu đệm
cho Trung Quốc. Thế nhưng, Đảng ta đã kiên quyết không chấp nhận lời khuyên đầy
dụng ý xấu ấy. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta đã vạch trần và đập tan âm mưu thâm độc của Trung Quốc. Với đường lối
độc lập tự chủ của Đảng ta, nhân dân ta đã dũng cảm đứng lên đánh đuổi kẻ thù,
không bị động trường kỳ mai phục, chờ thời cơ như giới cầm quyền Bắc Kinh đề
nghị.” (tr. 35)
Năm 1957
Tháng
10: “Chấp hành Nghị quyết tháng 6/56, Nghị quyết tháng 12/56 của Xứ Ủy Nam
Bộ lập 37 đại đội vũ trang và đơn vị 250, cấp tiểu đoàn ở Miền Đông Nam Bộ” với Tây Nam Bộ 30 đại đội, Trung Nam Bộ
5 đại đội, Đông Nam bộ 2 đại đội, vũ trang hoạt động bí mật. Tuy nhiên ngay
trong năm 1957 này, Xứ Ủy Nam Bộ đã“chủ
trương sử dụng các đội vũ trang đi tuyên truyền và hỗ trợ đấu tranh chính trị:
vận động quần chúng tham gia cách mạng, diệt ác ôn, thu vũ khí, vật chất để
nuôi dưỡng bộ đội, nhưng phải bảo tồn được cơ sở chính trị”.
Gọi là bí mật nhưng tài liệu cũng nêu ra hai
cuộc tấn công sau đây:
“Ngày
10-8-1957, lực lượng tỉnh Thủ Dầu Một tiến hành vũ trang tuyên truyền ở thị trấn
Minh Thanh diệt 20 tên cảnh sát ác ôn, thu 40 súng và 10 xe ô tô.
Ngày
18-9-1957, lực lượng tỉnh Biên Hòa đột nhập tuyên truyền công nhân ở hai trại
khai thác gỗ trại Be diệt ác ôn, thu 30 súng và một số xe.” (tr. 38)
Điều nên để ý là trong năm 1957 này, từ
ngày 30 tháng 10 đến ngày 7 tháng 12, một phái đoàn Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí
Minh dẫn đầu đã sang Liên Xô tham dự lễ kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng 10 của
Liên Xô và Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng Sản và công nhân thế giới, mang về
nhiều văn kiện quan trọng “giúp chúng ta
soi sáng hơn nữa con đường cách mạng của nước ta” (tr. 38), “luôn luôn nêu cao
tinh thần sáng tạo trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà”. (tr. 39)
Năm
1958
Giữa năm 1958, Xứ Ủy Nam Bộ thành lập
Bộ Tư Lệnh Miền Đông Nam Bộ (sau đổi làm Ban Quân Sự Miền) và tập trung một số lực
lượng của các tỉnh miền đông tổ chức thành
4 đại đội trực thuộc Bộ tư lệnh miền Đông. Riêng cho tỉnh Tây Ninh, vì
có căn cứ của Xứ ủy, một liên đại đội được tổ chức lấy phiên hiệu là C1000. Mặt
khác hai căn cứ khác cũng được Xứ Ủy thành lập. Đó là Khu B thuộc huyện Dương
Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, phía tây bắc
Saigon, và Khu A thuộc tỉnh Thủ Dầu Một.
Mùa hè 1958, “tiếp thu kinh nghiệm của Nam Bộ, quán triệt các nghị quyết Trung ương
và tài liệu Đường Lối Cách Mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, Liên khu ủy đề
ra nhiệm vụ xây dựng miền tây các tỉnh đồng bằng Khu 5 và Tây Nguyên thành căn
cứ cách mạng, bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở miền núi với
nhiệm vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ”. “Do đó, sau này khi có nghị quyết
Trung Ương lần thứ 15, phong trào quần chúng nổi dậy khởi nghĩa vũ trang ở Tây
Nguyên và một số ở đồng bằng đã lan ra nhanh chóng, tiến công địch rộng khắp
trên toàn chiến trường miến Nam.” (tr. 43)
Về thành tích, tài liệu này ghi nhận là “đã có những trận tiến công vào đốn bốt, căn
cứ địch, kết hợp đánh viện với quy mô lớn hơn trước như:
Ngày
10-8-1958, liên đại đội tỉnh Tây Ninh tiến công quận lỵ Dầu Tiếng, diệt 200
tên, bắt 30 tên, thu 200 súng tự động, sau đó đánh lui một tiểu đoàn địch đến
tiếp viện cho Dầu Tiếng.
Ngày
20/10/58, Đại Đội Đặc Công tấn công trụ sở phái đoàn MAAG ở Biên Hoà, 19 Mỹ bị
chết hay bị thương.” (tr. 41)
Năm
1959
Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần
15, tháng 5/59: “Con đường phát triển cơ
bản của Cách mạng miền Nam là dùng bạo lực”, tr. 49
Tháng 5/1959: Quân Ủy Trung Ương ra
nghị quyết thành lập Đoàn 559 còn gọi là Bộ Đội Trường Sơn tiếp tế người, vũ
khí vô Nam bằng đường bộ, Đường Mòn HCM
Tháng 7/59 : Đoàn 759, tiếp tế bằng đường
biển
9/59: Đoàn 959 cố vấn cho Quân ỦyTrung
Ương Lào
Trên đây là những gì Đảng Cộng Sản Việt
Nam từ Hà Nội của miền Bắc đã làm nhằm tiến chiếm Miền Nam bằng võ lực. Tất cả đã
xảy ra ngay từ vài ngày trước khi Hiệp Định Đình Chiến Genève được ký kết và
nhiều năm trước khi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, thường được gọi tắt
là Mặt Trận Giải Phóng, được thành lập và trước khi nước Mỹ can thiệp bằng võ lực.
Sau đây là những hành động kế tiếp của Đảng này.
Năm
1960
Điều tra dân số miền Bắc (tháng 3) và công
bố luật nghĩa vụ quân sự (tháng 4).
20/12/60: Thành lập Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam Việt Nam với “cương
lĩnh theo đường lối Đảng ta đề ra”.
Cũng năm 1960, tháng 5, những người cầm
quyền TQ khuyến cáo CSVN: “Không nên nói
đấu tranh quân sự hay đấu tranh chính trị là chính. Đấu tranh chính trị hay đấu
tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay mà cuộc đấu tranh trường kỳ…Dù
Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được vì đế quốc Mỹ không chịu để như
vậy đâu…”
và
gợi ý là “Miền bắc có thể ủng hộ chính trị
cho miền Nam, giúp miền Nam đẻ ra các chính sách nhưng chủ yếu là bồi dưỡng
tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền Nam. Khi chắc ăn, miền Bắc có thể
giúp quân sự cho miền Nam, nghĩa là khi chắc chắn không xảy ra chuyện gì, có thể
cung cấp một số vũ trang mà không cho ai biết. Nhưng nói chung là không giúp”,
tr. 72-73. Lý do theo các tác giả của tập
tài liệu, là vì Trung Cộng rất ngại phải đương đầu trực tiếp với Mỹ như đã
trích ở trên. Xin được trích lại “Đường
lối trên đây bộc lộ rõ âm mưu của Trung Quốc muốn ta hạn chế đấu tranh cách mạng,
duy trì lâu dài tình trạng chia cắt Việt Nam, sợ đế quốc Mỹ mở rộng chiến
tranh, muốn dùng miền Bắc làm khu đệm cho Trung Quốc. Thế nhưng, Đảng ta đã
kiên quyết không chấp nhận lời khuyên đầy dụng ý xấu ấy. Thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã vạch trần và đập tan âm
mưu thâm độc của Trung Quốc. Với đường lối độc lập tự chủ của Đảng ta, nhân dân
ta đã dũng cảm đứng lên đánh đuổi kẻ thù, không bị trường kỳ mai phục, chờ thời
cơ như giới cầm quyền Bắc Kinh đề nghị.” (tr. 35) Tại
sao Cộng Sản Việt Nam lại dám chống lại Trung Cộng như vậy? Đó là vì sau lưng đảng
này có Cộng Sản Liên Xô và nhiều đảng Cộng Sản khác. Điều chúng ta cần để ý ở đây
là nguồn gốc và bản chất của Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam và nguồn gốc
sâu xa của cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Hai, một
cuộc chiến lẽ ra có thể tránh được.
Tiểu
Saigon, ngày 21 tháng 4 năm 2014
Phạm Cao Dương