Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014
Hà Kỳ Lam - Núi vẫn xanh
Một lần nữa, ngày 30 tháng Tư lại sắp về, gợi nhớ kết thúc nghiệt ngã của chiến tranh Việt Nam 39 năm trước. Truyện ngắn sau đây ghi lại những nét bi tráng của người lính Việt Nam Cộng Hòa trong giờ thứ 25 của cuộc chiến năm xưa.
![]() |
Hai mươi cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn, năm mươi cây số đường núi mà tốc độ di chuyển băng rừng có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới 7 cây số một ngày.
|
- Ít nhất là một tiểu đoàn. Có thể là K
25B công binh như tin tình báo cho hay. Mẹ kiếp, máy bay lên chậm thế này để
chúng di chuyển hết thì hoài công.
- Không sao đâu, ông thầy. Bọn nầy có
vẻ còn ở đây lâu đấy, vì nhiều tên còn đang tắm, thậm chí giặt giũ nữa kia.
Bỗng hiệu thính viên Thịnh đưa ống
liên hợp cho thiếu úy Tuấn:
- Thằng L 19 đang lên vùng và cần gặp
ông thầy.
Tuấn bóp chặt ống liên hợp, đưa lên
miệng:
- Họa Mi đây Thạch Độ, trả lời.
Giọng miền Nam của viên phi công vang
lên trong ống nghe:
- Thạch Độ đây Họa Mi, bạn điều chỉnh
hướng bay khi bắt đầu thấy tôi để xác định vị trí bạn, trả lời.
- Họa Mi đây Thạch Độ. Tình thế khẩn
cấp lắm, tôi sẽ nháy mắt để anh có thể thấy tôi nhanh hơn, trả lời.
- Tôi nhận bạn năm trên năm, và trực
máy.
Tuấn đưa tay vẫy Tâm, một toán viên
dưới lưng chừng đồi đang ngoái đầu nhìn
lên anh. Khi người lính vừa bò đến gần Tuấn khẽ ra lệnh:
- Mày ra chỗ lúc nãy
chờ, khi thấy thằng L 19 thì chiếu kiếng cho nó thấy mình.
Lần hành quân nào cũng vậy, Tuấn chỉ
giao công tác chỉ điểm này cho Tâm. Không hẳn vì anh chàng làm công việc này
giỏi hơn các toán viên khác - Tuấn có bao giờ sát hạch môn này cho cả toán đâu
mà chấm điểm được - nhưng tình cờ một lần giao công việc này cho anh lính và
thấy được việc nên Tuấn chẳng muốn “thay
đổi nhân sự”.
Gài khẩu M 16 vào khoen leo núi móc gần
vai bên phải, Tâm bò về phía mõm đồi cỏ tranh cách xa bên trái của Tuấn khoảng
một trăm thước. Lúc mọi người vừa thoáng thấy chiếc máy bay quan sát màu trắng
ở nẻo xa thì Tâm cũng vừa quỳ tại bãi cỏ tranh ngập nắng, rút từ túi áo trên
cái kiếng hình chữ nhật chỉ hơi lớn hơn chiếc hộp quẹt Zippo và nâng lên ngang
mắt, nhìn từ phía sau kiếng qua lỗ nhắm ở trung tâm kiếng để hướng cái chấm đỏ
của tia mặt trời nằm thẳng hàng với phi cơ đang bay. Đoạn anh ta khẽ lắc nhẹ để
tạo sự nhấp nháy. Bỗng một tràng tiếng nổ dòn vang lên, cùng lúc Tâm bật ngửa
ra sau rồi nằm bất động. Cả toán biết điều không lành đã đến với người đồng
đội, ghìm súng ở tư thế đối đầu với mọi hướng. Thịnh nằm cạnh Tuấn khẽ nói:
- Đ.M. tụi nó ở đầy cả rừng rồi!
Tuấn chưa kịp đáp lời người lính mang
máy truyền tin thì những quả đạn sơn pháo 75 ly, đạn cối 82 ly, và những loạt
AK 47 thi nhau đổ về phía toán đang bố trí trên đồi. Cành cây, đất đá bắn tung
tóe vào thầy trò Tuấn. Không cần lệnh của người toán trưởng, mỗi toán viên nằm
thủ tại chỗ. Họ biết trong tình thế loại này tháo chạy hoặc co cụm lại với nhau
chỉ tổ lãnh thêm thiệt hại. Tuấn nhìn qua các toán viên và thấy tất cả còn
“nguyên”. Thịnh trao ống liên hợp cho Tuấn:
- L 19 gọi.
Tuấn chụp máy :
- Họa Mi đây Thạch Độ.
- Đây Họa Mi, tôi vẫn chưa thấy bạn
nhưng thấy nhiều cột khói và nhiều lằn chớp dưới đó.
- Đang bị ném đá. Tôi đang ở hướng ba
giờ của anh.
Sau hai lần “bẻ góc” nữa, chiếc máy bay
quan sát từ xa gióng chính hướng ngọn đồi lướt tới. Tuấn cho viên phi công biết
đang bay đúng hướng và sẽ báo cho anh ta biết khi nào máy bay vừa ngang qua
đỉnh đồi. Súng địch vẫn nổ dòn, mưa đạn vẫn tới tấp đổ về ngọn đồi, khiến công
việc điều không của anh càng khó khăn. Nằm dài trên mặt đồi để tránh tầm đạn
đi, bên chiếc máy truyền tin, tay cầm ống nói áp sát một bên tai, mắt vẫn ngước
lên dõi theo chiếc L 19 trên không đang tiến gần vị trí mình, rồi ngay lúc nó
vừa ở trên đầu, Tuấn bóp ống liên hợp, nói như reo:
- Họa Mi, anh đang ở ngay trên đầu tôi,
trả lời!
- Thạch độ đây Họa Mi. Nhận bạn rõ năm.
Rất tốt.
- Họa Mi đây Thạch Độ. Cứ trực máy, tôi
sẽ có việc cho anh.
Tuấn vừa trao ống liên hợp cho Thịnh
tiếp tục liên lạc với máy bay để bò gần về phía bìa rừng quan sát trảng cỏ
tranh, thì thình lình tiếng súng im bặt. Mấy giây sau cả rừng vang tiếng thét
“xung phong”. Rồi trước mặt Tuấn, từ hướng mõm đồi cỏ tranh nơi Tâm quì chỉ
điểm cho phi cơ vừa rồi, và từ hướng trước mặt toán lố nhố người cứ ùn ùn tiến
tới. Hóa ra đợt bắn phá vừa rồi là trò đánh phủ đầu để bộ binh tiến sát. Bóng
dáng những bộ quân phục kaki màu lá cây, nón tai bèo cứ xông lên bất kể những
tràng đạn M 16 đốn ngã từng đợt người. Khoảng một trung đội địch tiến hàng
ngang đã lên tới đỉnh đồi, cách bọn anh không đến mười thước, với tiểu liên AK
kẹp nách bắn xối xả. Một tên địch gần Tuấn hơn ria một tràng đạn về phía anh,
nhưng, như một phép lạ, anh vô sự. Thịnh nhanh tay siết cò súng hạ hắn đo đất.
Nhiều tràng M 16 đáp lễ ngăn được chốc lát sự “tiếp cận” kia. Lúc này hai chiếc
A 37 cũng vừa xuất hiện và bay cao hơn chiếc L 19. Trung sĩ Hiến báo cáo hai sự
kiện dồn dập: Châu bị nguyên một tràng đạn AK vào ngực, chết ngay trên đồi, và
địch bây giờ tràn lên đông hơn. Tuấn ra lệnh cả toán rút xuống triền dốc về
phía thung lũng. Anh biết thung lũng đang có một đơn vị lớn của địch. Anh chỉ
muốn bỏ ngọn đồi, men theo triền dốc, rồi xin phi pháo đánh ngay trên đồi để
toán tiện bôn tẩu. Nhưng di chuyển một đoạn ngắn thì nhiều tràng AK từ dưới
chân đồi khạc đạn xối xả về phía bọn anh. Không xong. Tứ bề thọ địch. Chỉ vỏn vẹn
bốn tay súng mà tử thủ với biển người hay liều mạng phá vòng vây trùng trùng
của địch thì phỏng ích lợi gì? Tuấn bấm ống liên hợp:
- Họa Mi đây Thạch độ.
- Họa Mi nghe. Bạn cho biết cần gì?
- Anh cho đánh ngay trên đầu chúng tôi.
- Không được! Bạn xác nhận lại, đánh ở
đâu?
- Tôi, thẩm quyền Thạch Độ nhắc lại
đánh ngay trên đầu chúng tôi và bất cứ chỗ nào có người. Địch tràn ngập rồi,
không chần chờ gì nữa. Đánh ngay đi. Dứt!
Tuấn trả máy cho Thịnh trước vẻ mặt hốt
hoảng của anh này. Không có thì giờ và cũng không cần giải thích về quyết định
của mình với người lính truyền tin của toán, Tuấn nép sau một thân cây to để
tránh các tràng tiểu liên AK từ dưới chân đồi vẫn không ngừng quạt lên. Trên
đỉnh đồi bây giờ đã lố nhố người của đối phương. Bốn người thám sát Biệt Cách
Dù chỉ còn biết tử thủ: Hiến và Sắc chĩa súng về hướng đỉnh đồi, còn Tuấn và
Thịnh quay súng xuống chân đồi. Cả bốn tay súng chiến đấu trong một ô vuông mỗi
cạnh khoảng mười thước. Họ bắn dè xẻn từng ba phát một nhưng rất hiệu quả, và
nhờ vậy đã làm chậm bước tiến của địch. Trong khi đó chiếc L 19 vẫn chưa chịu
thi hành điều Tuấn yêu cầu, cứ bay lòng vòng bên trên. Anh “thông cảm” cho
người phi công, nhưng không khỏi tức giận vì cảnh dầu sôi lửa bỏng của mình.
Anh ta phải xin lệnh từ Trung Tâm Không Trợ về điều yêu cầu “điên khùng” kia,
và chắc đang chờ trả lời. Tuấn cũng lấy làm lạ lần này không có biệt đội trưởng
hay một sĩ quan của Liên Đoàn bay L 19 hay trực thăng C&C như mọi lần. Thình
lình mọi người cùng nghe rõ âm thanh “chéo-éo-éo ... đoành!”. Một cột khói
trắng bốc cao và cuồn cuộn tỏa ra như một đám mây, vươn lên khỏi tàng cây rừng
ngay đỉnh đồi mà toán thám sát vừa rời bỏ. Tuấn biết viên phi công quan sát vừa
bắn một trái khói chỉ điểm mục tiêu oanh kích. Điều yêu cầu của anh đang được
đáp ứng. Tuấn vẫn nép sau thân cây. Rồi anh bỗng thấy hành động nấp sau thân
cây rõ lẩm cẩm vì biết bom sẽ rơi hướng nào. Nhưng đành phó mặc cho may rủi,
anh cứ ngồi bên gốc cây. Tuấn tưởng chừng như anh đang gồng mình lại, các bắp
thịt toàn thân như rắn lại, chờ đợi sấm sét giết người từ trời cao ... Chiếc
oanh tạc cơ thứ nhất đâm bổ xuống ngay trên đầu Tuấn, rồi hẳn nhiên đã đạt tới
một độ thấp vừa đủ, con chim sắt ấy lại vút lên cao vài giây trước khi hai trái
bom từ dưới cánh đâm thẳng xuống quả đồi của anh. Tuấn không dám tiếp tục ngẩng
nhìn lên trời. Anh nằm cúi mặt xuống, thân chịu trên hai cùi chỏ để tránh áp
ngực với mặt đất. Anh thấy vài con kiến ung dung bò trên nền lá khô. Thốt nhiên
Tuấn cảm nhận được cái mong manh của thân xác mình lúc này - khác gì những cái
kiến kia! Chỉ có mỗi một khác biệt là anh đau khổ chờ đón cái chết chóc, cái
hủy diệt, còn chúng thì không hay biết gì cả, vẫn thản nhiên, vẫn ung dung cho
đến khi nào cái chết xảy ra là xong, không còn cảm giác nữa. Chúng hạnh phúc
hơn anh trong lúc này. Từng khuôn mặt thân yêu trong gia đình diễn hành nhanh
qua trí anh: mẹ anh, các em, và chị. Rồi anh nghĩ đến Trinh thật xa xăm và cũng
thật gần. Anh có còn trở lại cổng trường Trưng Vương nữa không? Rồi bên tai anh
nghe mơ hồ giọng một ca sĩ quen thuộc với “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở
lại. Xin trả lời mai mốt anh về...” Tuấn lại nghĩ đến tập thể tuổi trẻ Sài Gòn:
không có anh trong đó! Và trong cái khoảnh khắc chờ đón một sự hủy diệt khủng
khiếp sắp giáng xuống mọi người, một khoảnh khắc rất ngắn nhưng cũng rất thiên
thu, giác quan anh đón nhận cả một trình tự ngoại vật lướt qua chóng vánh: âm
thanh động cơ phản lực gầm thét qua đầu, tiếng bom xé gió, hàng loạt tia chớp
lóe lên, từng tràng tiếng nổ kinh hồn, và mặt đất rung chuyển. Tuấn bị nhiều nguồn
lực từ mọi hướng đẩy bật ngửa rồi xô tới trước hoặc xoay vòng; anh có cảm giác
ngực bị ai đấm một quả rõ mạnh, tức đến khó thở. Đất, sỏi ùn lên hắt vào người
anh. Khói đen tỏa ra chung quanh, không khí khét lẹt mùi thuốc nổ. Tuấn biết
một trái bom đã đáp cách anh không xa, đào một hố rõ to và làm dạt một mớ cây
nhỏ bên trái anh, tung tóe đất lên quần áo anh. Riêng thân cây to vẫn đứng vững
và hiển nhiên đã hứng hết những mảnh bom, đất đá và sức ép cho anh. Anh sờ khắp
người để thấy mình vô sự. Trái bom khác rơi trên đỉnh đồi đã bật gốc một cây cổ
thụ, tạo nên một âm thanh phụ nghe đánh ầm và làm trống hẳn một khoảng rừng.
Tuấn bò qua những cành cây gãy đổ ngổn
ngang, tìm Thịnh nhưng không thấy hắn đâu cả. Trong mọi tình huống anh phải có
máy bên cạnh mình. Nhưng chiếc A 37 lại đang đâm bổ xuống đầu Tuấn một lần nữa.
Anh vội ngồi nấp sau một thân cây. Có lẽ đây là chiếc thứ hai, đang theo gót
phi tuần trưởng của nó vừa rồi. Dù sao thì anh sắp hứng chịu một “trận đòn thù”
nữa. Lại “ầm! ầm!” rồi mấy tiếng “ầm” phụ nổi lên. Tuấn lại bị lộn nhào một lần
nữa, và anh giật bắn người khi thấy một cây cổ thụ vừa bật gốc ngã sóng soài
cách anh không đầy một thước. Giá mà nó phang ngay anh thì còn gì nữa! Ngọn đồi
bỗng “đổi mới”; cây ngã la liệt. Tuấn vẫn tìm Thịnh, tìm trung sĩ Hiến - người toán phó - và Sắc. Toán may ra thì còn
được bốn mạng, kể cả anh. Tâm và Châu đã ra đi rồi! Nhưng sao thế này: im phăng
phắc - địch đâu rồi, và ta đâu rồi? Bỗng lá cây lay động sột soạt sau lưng.
Tuấn quay phắt lại, khẩu M 18 dưới nách chỉ thẳng vào bóng người từ trong bụi
rậm vừa đứng lên.
- Sắc đây ông thầy.
Tuấn thở phào một cách dễ chịu. Anh khẽ
nói:
- Mày không sao chứ?
Anh lính khẽ lắc đầu thay lời đáp. Tuấn
biết mình vừa hỏi một câu không cần trả lời; nó chỉ có nghĩa của một câu xác
định, “à, may quá còn có mày.” Anh đang lo cho số phận của các toán viên.
- Trung sĩ Hiến và Thịnh có sao không?
Sắc vừa nói vừa đưa tay chỉ về hướng
hơi chếch đỉnh đồi:
- Ông Hiến bị thương nằm ở đằng kia.
Ổng hỏi thăm ông thầy, và bảo em đi tìm.
Tuấn muốn đến gặp ngay trung sĩ Hiến
xem tình trạng thương tích của ông ta ra sao, nhưng anh phải tìm Thịnh trước vì
máy móc truyền tin là linh hồn của toán. Hai chiếc phản lực bây giờ đang ở tít
trên mây; tiếng động cơ của chúng nghe nghe rất xa và đứt đoạn. Chiếc L 19 vẫn
quầng trên đầu hai người. Có lẽ viên phi công đang gọi Thạch Độ khàn cả tiếng,
Tuấn nghĩ thế. Quái, Thịnh biến đâu mất với chiếc máy truyền tin. Tuấn vẫn nhớ
hắn chạy theo sau anh và nấp gần đây trước khi bom rơi. Tuấn bỗng nẩy ra ý nghĩ
bới tìm trong mớ cây cối đổ ngổn ngang ngay cạnh hố bom. Và trong lúc hai thầy
trò đang len lỏi bò vào từng đống cây lá nằm bên trên hoặc bị vùi lấp dưới lớp
đất mới thì phía trảng cỏ tranh một tiếng nổ phát ra và một cột khói trắng bốc
cao. Anh biết viên phi công máy bay quan sát vừa bắn một trái chỉ điểm cho phản
lực đánh bom xuống nơi anh ta vừa thấy địch ẩn núp đâu đó.
Trong tiếng rít của hai chiếc A 37 trên
đầu, tiếng rền và chấn động liên hồi của
bom, Tuấn chợt nghe giọng gọi đầy khích động của Sắc:
- Ông thầy ơi.
Tuấn nguớc nhìn theo ngón tay trỏ của
người lính và thấy cách họ vài thước khúc cần ăng-ten của chiếc máy PRC 25 nhú
ra khỏi mớ đất vàng tươi mới tinh khôi dưới mấy cành cây phủ lên. Anh lặng
người mấy giây, cảm thấy đôi chân như
không đứng vững nổi. Giọng nói Tuấn nghe yếu ớt qua hơi thở:
- Moi đất ra.
Hai người hì hục lôi các cành cây bỏ
sang một bên, dùng tay bới mớ đất bột lên. Chiếc máy truyền tin bị thủng, móp
méo, vỡ nhiều chỗ, từ từ lộ ra, rồi màu áo rằn ri bày ra, dính đất và máu. Tuấn
và Sắc cùng nâng người Thịnh đang nằm sấp lên. Xông pha trận mạc đã nhiều, đã
trông thấy bao nhiêu xác chết của cả đôi bên, nhưng anh phải nhận chưa bao giờ
thấy một xác người như thế này, nói chi xác ấy là đồng đội, là thuộc cấp của
mình. Cả người Thịnh từ bụng lên vai bị mất tùng mảng thị lớn, và xương vai một
bên bị gãy. Nhưng cái chân, ôi cái chân trái, anh không biết phải nói thế nào
... đứt đến trên đầu gối, chỉ còn dính tòn teng với toàn thân bằng một mảnh da
rộng bằng một bàn tay, và thịt chỗ hai đầu bị cắt lìa trở nên xám đen giống như
vừa bị nướng trên lửa!
Sắc mở thử máy truyền tin. Chỉ là một cục kim
khí im thin thít vô dụng. Chợt nhớ tới trung sĩ Hiến, hai người thận trọng di
chuyển, và Sắc dẫn đường ngược lên đồi. Họ bước qua nhiều xác lính Bắc Việt nằm
đủ vị thế - nghiêng, ngửa, sấp, hay cong queo. Tuấn cúi xuống bên người toán
phó, xem xét vết thương ở bụng. Có vẻ một mảnh bom đã cứa một đường dài và sâu
trước bụng. Anh thử xốc người thương binh lên nhưng anh ta nhăn nhó một cách
đau đớn:
- Ối, ông thầy để tôi nằm đi.
- Trước khi bom nổ anh đã rút xuống
triền dốc với toán mà sao lại ở đây?
Trên gương mặt tái xanh vì mất nhiều
máu của Hiến Tuấn thấy một sự cố gắng dùng sức mới bật ra thành tiếng:
- Tôi chạy lên để... kéo xác thằng Châu
xuống... kẻo bom dần nát mất nhưng...
Hiến ngưng nói, vẻ mệt nhọc, đưa lưỡi
liếm quanh vành môi tái nhợt và khô khốc. Sắc mở nắp bi-đông, khẽ nâng đầu anh
lên và kề miệng bình nước vào môi. Tuấn nhắc:
- Cho uống ít thôi để giữ cho máu bớt
chảy.
Trong khi tháo cuộn băng cá nhân để
băng cho trung sĩ Hiến, Tuấn vẫn thận trọng quan sát chung quanh. Anh thấy nhiều xác chết đối phương rải rác khắp nơi.
Xác Châu nằm cách trung sĩ Hiến khoảng năm thước, mắt còn nhìn lên trừng trừng.
Anh rón rén bò đến bên người toán viên vẫn hay di chuyển hàng đầu trong các
cuộc xâm nhập của toán, đoạn từ từ vuốt cho đôi mắt nhắm lại. Rừng im phăng
phắc. Có lẽ chúng chỉ di tản những kẻ bị thương. Những người nằm kia đều “câm
nín”. Sau khi đảo lại mấy vòng để bắn rocket và đại liên mười hai ly bảy xuống
một điểm mới dưới thung lũng do phi cơ quan sát chỉ điểm, hai chiếc phản lực đã
rời vùng. Chiếc L 19 vẫn còn lượn trên không phận hành quân. Tuấn vừa quay sang
bảo Sắc lấy chiếc pa-nô tìm cách trải để ra hiệu cho máy bay biết mình có mặt
tại chỗ thì bỗng rừng núi lại rền vang từng tràng nổ. Tuấn nói:
- Mười hai ly bảy.
Chiếc L 19 vụt cất cao lên và mất hút
vào khoảng không. Tuấn đề nghị khiêng trung sĩ Hiến men theo triền dốc về hướng
Bắc cho xa vùng giao tranh được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Anh đoán địch sẽ
chiếm lại đồi này. Bỗng dưng trung sĩ Hiến quàng một tay ôm chặt chân Tuấn và
thều thào nói:
- Ông thầy đi đâu anh em cũng đi theo
ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em ...
Tuấn định thốt một lời an ủi, hay trấn
an nhưng bàn tay trung sĩ Hiến đã buông rơi khỏi cổ chân anh, đầu ngoẹo sang
một bên, mắt nhắm nghiền như đi vào một giấc ngủ. Anh lay mạnh vai Hiến:
- Anh Hiến! anh Hiến!
Chỉ có tiếng gió ngàn xào xạc đáp lại. Rừng
chiều hửng nắng ở những đồi xa. Sắc bỗng vỗ vào cạnh sườn Tuấn và chỉ về hướng
trảng cỏ tranh. Lố nhố một đoàn quân dàn hàng ngang đang tiến lên đồi của anh.
Họ vận kaki xanh, nón tai bèo, súng kẹp nách, vai đeo ba lô. Hai thầy trò vội
lom khom chạy về phía triền dốc, rồi di chuyển về hướng Bắc men theo sườn đồi.
Đi được một giờ, vượt qua vài con suối,
mấy quả đồi thấp, Tuấn dừng lại xem bản đồ, đoạn bảo Sắc đổi hướng, đi về đông
theo phương giác 1800. Năm giờ chiều. Đêm rừng bao giờ cũng đến nhanh. Trong
ánh sáng nhá nhem hai thầy trò kẻ trước người sau cứ tiếp tục luồn lách qua cây
lá, bụi rậm. Rồi sực nhớ phải có một độ quan sát tối thiểu mới có thể chọn một vị
trí ngủ đêm an toàn, Tuấn khẽ nói với người toán viên đồng hành:
- Ta lên đỉnh đồi trước mặt tìm chỗ
nghỉ đêm.
Mới hơn bốn giờ sáng Tuấn đã thức giấc.
Bao giờ người lính hành quân cũng thức giấc sớm, vì giấc ngủ đến vào khoảng bảy
giờ chiều thay vì một hai giờ sáng ở những “đêm đô thị”. Trời còn tối mịt. Anh
nằm nghe ngóng một lát, đoạn đưa tay sờ lưng võng của Sắc. Một giọng nói rất
khẽ:
- Ông thầy thức rồi hả?
Rồi ánh sáng nhờ nhờ đổi dần sang trắng
đục. Rồi mọi vật bỗng hiện rõ trước một ngày đang lên. Có vài tiếng chim hót.
Có vài tiếng hú đâu đó bên một ngọn đồi khác, rồi không biết bao nhiêu tiếng hú
cất lên vang cả một vùng đồi núi, cơ hồ như tiếng hú này lây sang tiếng hú
khác, và cứ thế truyền đi khắp nơi. Tuấn đã quá quen với các tấu khúc bình minh
của rừng núi. Hai người cuốn võng bỏ vào ba lô, dọn dẹp “sạch sẽ” chỗ đất dưới
chân, lùa mớ lá cây chung quanh phủ lên, không để lại một dấu vết nào có thể tố
cáo sự hiện diện của hai thầy trò. Sắc mở một bịch gạo sấy, rót nước từ bi-đông
vào bao làm một bữa ăn sáng. Tuấn chẳng thấy đói, tuy suốt ngày hôm qua anh chỉ
ăn có một gói cơm sấy vào buổi sáng. Tâm trí anh quay về với những gì đã xảy
ra. Bị lộ, trận oanh kích, những xác đồng đội bị bỏ lại, và bây giờ hai người
lạc lõng giữa rừng không máy móc liên lạc để biệt đội biết tung tích. Anh có
trách nhiệm gì với những thuộc cấp vừa ra đi vĩnh viễn kia? “Ông thầy đi đâu
anh em cũng theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em ...” Tuấn thấy miệng đắng
khi nuốt nước bọt. Anh thèm một điếu thuốc, và một ly cà phê. Anh nhìn Sắc đang
ngồi ăn, nhìn xuống khẩu M 18 gác trên đùi mình, ngước nhìn bầu trời xanh biếc
ban mai. Sắc vụt hỏi:
- Bây giờ tính sao, ông thầy?
- Không có máy móc, không biết ở nhà
thế nào, còn ở nhà cũng chẳng biết mình sống chết ra sao. Cứ tiếp tục đi về
hướng Đông, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng gần nhà càng tốt. Có trực thăng
thì trải pa-nô cho nó thấy mình. Thế nào biệt đội cũng cho máy bay đi tìm.
- Cha con nó bị thiệt hại nặng. Hai
chiếc A 37 đánh hiệu quả thật. Sườn đồi bên kia và trảng cỏ tranh lãnh trọn mấy
trái bom. Em thấy chung quanh chỗ ông Hiến nằm ít nhất cũng cả chục xác nằm la
liệt. Ông thầy có để ý không? Đợt bom đầu tiên chận đứng ngay cuộc tấn công. Em
nghĩ có lẽ chúng kêu phòng không đến tiếp cứu sau này, vì suốt trong khi oanh
kích đâu có khẩu mười hai ly bảy nào hoạt động đâu.
Tuấn đồng ý với phần lớn những lập luận
của Sắc, nhưng anh chẳng thấy hứng thú bàn luận về chiến trận vừa qua. Tỷ số tử
vong của chiến trường và tỷ số tử vong của lòng mình, cái nào làm nên chiến
thắng? Đợi cho người lính ăn xong và đào đất lấp mọi dấu vết, Tuấn đề nghị lên
đường.
Sang đến ngày thứ ba hai người vẫn tiếp
tục băng rừng, ngày đi đêm nghỉ. Còn khoảng hai chục cây số đường chim bay nữa
mới về đến bộ chỉ huy của Liên Đoàn. Cả hai đều thấy ngao ngán. Hai mươi cây số
đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn, năm mươi cây số đường núi, mà tốc độ
di chuyển băng rừng - chứ không phải theo theo đường mòn - có nhanh lắm cũng
chỉ đạt tới bảy cây số một ngày.
Nhưng
điều bất ổn trong lòng họ không phải đường về dịu vợi, đầy đe dọa, bất trắc,
lương thực cạn. Cái bất ổn là không trung vắng lặn. Từ cái buổi sáng đầu tiên
sau khi bỏ ngọn đồi và đồng đội ở lại anh và Sắc không hề thấy thấp thoáng, dù
xa, bóng dáng một chiếc máy bay. Lạ thật. Không một chiếc trực thăng, không một
chiếc L 19, không một chiếc vận tải, không một chiếc oanh tạc cơ phản lực, thậm
chí không một chiếc máy bay dân sự, không có gì ráo trên bầu trời quang đãng.
Chưa bao giờ như thế, ít ra từ ngày Tuấn vào lính; chưa bao giờ có một ngày
không có một hoạt động nào của không quân. Anh ngồi nghỉ mệt trên một ngọn đồi,
tựa lưng vào một thân cây, dựng súng bên cạnh. Sắc ngồi xếp bằng trên mặt đất,
cạnh Tuấn. Người lính cảm thấy bồn chồn khi nhìn vẻ tư lự của người chỉ huy.
Anh ta không dám hỏi bất cứ điều gì lúc này. Tại sao bầu trời vắng lặng thế
này? Sao không nghe một tiếng đại bác, một tiếng bom nổ xa xa? và vân vân. Cuối
cùng, không nén nỗi những băn khoăn trong lòng, Sắc lên tiếng:
- Em thật không hiểu nổi. Chắc có chuyện
gì đây, chứ không thể nào Liên Đoàn đem con bỏ chợ như thế này.
- Tao cũng chịu thua, không hiểu nổi.
Đành rằng mình không có phương tiện liên lạc, không biết tình hình ở nhà hay
các đơn vị bạn ra sao, nhưng Liên Đoàn vẫn có thể cho trực thăng đi tìm. Đằng
này bặt vô âm tín. Mà cái điều lạ lùng nhất là không có bóng dáng một chiếc máy
bay nào cả, chứ đừng nói trực thăng C&C của biệt đội. Tao cũng nghĩ như
mày: chắc có biến cố gì đây. Điều cần nhất bây giờ là bằng mọi cách phải gắng
về tới bộ chỉ huy Liên Đoàn. Mầy còn mấy gói gạo sấy?
- Dạ ba gói, và không tới nửa chai xì
dầu.
- Tao còn năm gói. Tao sẽ đưa thêm cho
mày một gói. Mỗi thằng như vậy có bốn gói.Tao ước tính từ đây về tới Liên Đoàn
có thể mất sáu, bảy ngày nữa. Bây giờ tao tạm ấn định kỷ luật dùng lương khô là
mỗi thằng chỉ được ăn nửa gói một ngày. Cố gắng chịu đựng như vậy thì mới đủ
sức mà lết về tới nhà. Tao nói sáu, bảy ngày là trong giả thuyết di chuyển vô
sự, không đụng địch.
Điều Tuấn nói sau cùng nhắc lại sự bất
an của hai người. Trong ba ngày qua thầy trò anh đã né tránh mấy đoàn quân dài
dằng dặc. Trong đời nhảy toán của mình Tuấn chưa bao giờ thấy địch chuyển quân
rầm rộ như thế. Một điều lạ lùng nữa là những đoàn người cứ nườm nượp hướng về
Đông, cùng chiều với anh và Sắc, chỉ khác là họ dùng đường mòn. Tuấn đứng dậy
tháo ba lô đặt xuống đất, lôi một gói gạo sấy đưa cho Sắc, đoạn cả hai lên
đường.
*
* *
Tuấn nhìn đồng hồ tay: ba giờ chiều.
Tuy gần cuối ngày, cái nắng như nung như đốt của tiết trời miền Nam đầu tháng
Năm vẫn chưa dịu đi chút nào. Đưa bi đông lên miệng tu một ngụm nước xong, anh
xoay xoay tấm bản đồ, nhìn thật kỹ những vòng cao độ nâu lẫn xanh nhạt, rồi
ngước nhìn địa thế chung quanh. Cho chắc chắn, anh mở cái địa bàn, xoay cho
hướng bắc của bản đồ trùng với hướng mũi tên của địa bàn, đoạn anh đối chiếu
chi tiết bản đồ với địa thế một lần nữa. Anh hân hoan nói với Sắc:
- Tới vùng Tân Uyên rồi!
- Chắc không, ông thầy?
- Bảo đảm!
Hai thầy trò bỗng thấy khỏe khoắn trong
người, mặc dù mới trước đó mấy phút họ cảm thấy gần kiệt sức sau sáu ngày băng
rừng lội suối với những cơn đói triền miên làm bủn rủn chân tay, hoa cả mắt.
Nhìn lại đoạn đường dài gian nan, hiểm nguy, Tuấn thấy thương hại Sắc. Hắn ta
to con, ăn khỏe, nên trong mấy ngày qua quả thật là một chuỗi ngày khốn khổ
“tận cùng bằng số” đối với hắn. Tuấn bảo:
- Bây giờ mày có thể ăn nốt nửa bịch
gạo sấy cuối cùng cho đỡ đói. Còn vài cây số nữa là tới chi khu rồi, tha hồ mà
gọi mì, phở, hủ tiếu...
- Lạ thật, không thấy thèm nữa ông thầy
ơi. Thôi, mình đi lẹ tới chi khu đặng báo Liên Đoàn đón.
Hai người lội qua một con suối, tiếp
tục đi về Đông. Họ bước đi vững vàng hơn những ngày còn lếch thếch giữa rừng.
Sau khoảng một tiếng đồng hồ di chuyển, nhìn xuyên qua một khoảng rừng thưa,
hai người thoáng thấy mấy nóc nhà lợp tôn của chi khu Tân Uyên ở tít đằng xa,
bên kia sông. Cùng với bước tiến của Tuấn và Sắc, mọi vật rõ dần. Rồi lá cờ
phấp phới trên trụ cờ tuy vẫn còn mờ mờ trong quãng xa nhưng đã đủ để thấy
không phải lá cờ vàng ba sọc đỏ quen thuộc. Hai người không tin nổi mắt mình:
làm thế nào mà lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao ở giữa lại ngang nhiên tung
bay nơi này. Thầy trò nhìn nhau, nhưng mỗi người theo đuổi những suy nghĩ
riêng. Sắc bỗng vỗ vai Tuấn chỉ về phía con sông trước mặt, vẫn ở nẻo xa và
chen vào giữa khoảng cách từ chỗ họ đến
chi khu: vài chiếc ghe cũng treo loại cờ đó. Nhìn qua mấy mái nhà tranh gần bờ
sông cũng lại thấy những lá cờ đó. Sắc khẽ nói:
- Chắc chúng chiếm vùng Tân Uyên rồi.
Không khéo Biên Hòa cũng di tản chiến thuật nốt.
Tuấn nói, để tự trấn an hơn là làm yên
lòng người thuộc cấp:
- Không thể có chuyện đó được.
Chợt nhìn bên trái, qua một khoảng rừng
chồi lưa thưa, thấy có mấy người nông dân đang cuốc đất trong một thửa ruộng,
anh chợt nẩy ra ý nghĩ đến tiếp xúc họ để dò hỏi tình hình. Tiến sát mảnh
ruộng, để Sắc ngồi lại trong một bụi cây yểm trợ, Tuấn cầm khẩu M 18 trong tay
phải, bước đến bên bốn người đang làm việc đồng áng. Họ ngừng tay, nhìn anh
chằm chặp. Tuấn hỏi người lớn tuổi nhất trong nhóm người, một ông già khoảng
năm mươi, xương xẩu nhưng còn nhanh nhẹn:
- Thưa Bác, hình như chi khu đã rút đi
rồi, phải không ạ?
Gương mặt thoáng bối rối, ông nhìn Tuấn
từ đầu đến chân rồi nói rất khẽ:
- Chú là biệt kích 81 trong rừng mới ra
hả?
- Dạ phải.
- Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng
từ năm, sáu ngày nay rồi, từ hôm ba mươi tháng Tư. Ai nấy đều buông súng trở về
nhà hết. Chính phủ Cách Mạng chẳng làm khó dễ gì cả. Anh em còn bao nhiêu
người?
Tuấn chẳng còn nghe rõ ông già hỏi gì
nữa. Anh cúi đầu rất lâu. Giòng ý thức của anh bỗng như ngừng lại - không hẳn
là nó đặc quánh lại, cũng không hẳn nó trống rỗng, chỉ biết nó tuồng như không
còn khả năng suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc nữa. Tuấn có cảm tưởng sau bao nhiêu
suy đoán, thắc mắc, giờ đây được thực tế trả lời, trí não mình bỗng thấy “no”
rồi, không đòi hỏi nữa, cũng không nhận dữ kiện nào từ ngoại giới nữa! Sắc từ
trong bụi vội bước ra. Nhìn dáng điệu của người toán trưởng anh đã đoán tình
hình hẳn là rất xấu. Trong ánh mắt ái ngại, ông cụ lặp lại cho người lính thứ
hai nghe:
- Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng
hôm ba mươi tháng Tư rồi. Các chú nên bỏ súng ống đi, trở về gia đình thôi.
Đến lược Sắc đứng đờ người ra. Lúc ngồi
trong bụi anh đã đoán tình hình phải xấu, anh đã lờ mờ phác họa một vài viễn
anh tệ hại, nhưng “xấu” như ông già này cho biết thì thật vượt quá xa dự tưởng
của anh.
Đột nhiên Tuấn ngước lên chào từ giã:
- Tụi cháu cám ơn Bác. Thôi, tụi cháu
về.
Tuấn bước đi trước, và Sắc theo sau. Họ
tiến về phía bờ sông. Hai người đứng nhìn giòng sông êm ả, trong vắt một hồi
lâu. Rồi Tuấn nhìn Sắc, ngập ngừng vài giây, nói với một giọng hơi lạc đi,
nhưng không kém dứt khoát:
-
Qua bên kia sông, có thể đi bộ ra đến xa lộ, từ đó đón xe về Sài Gòn.
Sắc, thôi thầy trò mình chia tay. Kể từ giờ phút này tao không còn là trưởng
toán của mày nữa. Cứ tự do về với gia đình. Tao chỉ muốn nói một điều. Trong
những ngày mày theo toán, nếu tao có làm những gì khiến mày buồn lòng, hoặc vì
trách nhiệm, hoặc vì sai lầm, tao mong mày bỏ qua cho. Cầu chúc mày thật nhiều
may mắn.
Sắc cố bậm môi để giữ cho miệng khỏi bị
méo xệch. Anh ta muốn nói cả nghìn lời nhưng không thốt được một tiếng. Cúi gầm
mặt xuống một lúc như cố đè cơn xúc động cứ chực bật ra thành tiếng nấc, cuối
cùng anh ta hỏi:
- Còn ông thầy?
- Tao không thể bỏ toán còn nằm lại
trong đó.
- Nhưng họ chết hết rồi mà.
- Chính vì vậy mà tao thấy mình không
thể về nhà được. Lời nói sau cùng của trung sĩ Hiến rất đúng.
Tuấn ngập ngừng một lát, định nói thêm
điều gì nữa nhưng lại thôi. Anh sẽ mang những đắng cay trong lòng mình vào rừng
núi. Có lẽ anh chỉ cần nói điều đó với toán của anh vẫn còn lại trong rừng:
người lính ở đâu cũng thế, chỉ là công cụ; thắng bại không phải do họ định
đoạt, và vinh quang của chiến thắng cũng không thuộc về họ - có thuộc về họ
chăng chỉ là những đau khổ của chiến bại và của hy sinh!
Tuấn quay lưng đi về hướng khi nãy hai
thầy trò từ trong rừng ra. Trong một thoáng cõi lòng Sắc như hứng chịu bão táp
tơi bời từ mọi hướng. Tìm về xa lộ sao ngập ngừng bước chân. Anh muốn rảo bước
theo sau người toán trưởng, nhưng hình ảnh những đường phố Sài Gòn thân thuộc
giờ đây không xa lắm như níu chân anh, dù anh nghĩ nơi ấy chắc cũng đang phấp
phới những lá cờ này. Rồi hình ảnh mẹ anh hiện ra thật rõ và bao trùm cả không
gian. Sắc gọi:
- Ông thầy!
Tuấn quay lại. Sắc đứng ở thế nghiêm,
đưa bàn tay phải lên ngang mày chào. Tuấn chào đáp lễ, đoạn quay gót tiến bước.
Người lính đứng nhìn theo cái dáng gầy, phong sương xa dần rồi khuất sau ngàn
lá. Anh ta lại nhìn những dãy núi xa xa ở chân trời.
Núi
ở chân trời bao giờ cũng xanh lơ. Chắc toán của anh đang nằm trên một trong
những dãy núi đó. Chắc người trưởng toán lại trèo lên nơi ấy. Sắc không sao
ngăn nổi mấy giọt nước mắt từ từ lăn xuống, quyện với mồ hôi làm lưỡi anh mặn
chát.
Hà Kỳ Lam
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét