Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

Trùng Dương - New Orleans Kỷ niệm 10 năm xây dựng bộ sử di dân của người Việt tị nạn

Các công tác đã và đang hoàn tất: Bộ Tù nhân Chính trị Việt Nam; bộ Di cư 1975 tại Guam; bộ 500 Lịch sử Truyền khẩu (oral history); và bộ phim tài liệu “Hành Đi Tìm Tự Do của Người Việt tị nạn”

“Ghi lại lịch sử bi hùng của người Việt tị nạn sau 1975 rất là cần thiết. Nếu chúng ta không ghi lại thì con cháu chúng ta sẽ không biết được những sự kiện đã xẩy ra vì những gì được ghi lại trong sử sách các em học ở nhà trường cũng như có nhiều sách vở hiện lưu hành đã ghi ngược lại những gì đã thực sự xẩy ra đưa đến cuộc tị nạn của chúng ta.” – John Hoà Nguyễn, New Orleans, LA

Trái, Linh mục Nguyễn Văn Nghiêm, vị chủ chiên của Giáo xứ Nữ Vương Maria ở đông ngạn New Orleans, phải, đang ngỏ lời chúc mừng sinh nhật 10 tuổi của Hội Bảo tồn Văn hoá và Lịch sử Người Việt tại Mỹ - VAHF, bầy tỏ niềm ưu tư về tình trạng Trung Quốc đang xâm lấn dần biển, đảo và đất tại Việt Nam, với niềm hy vọng là “văn hoá còn thì người Việt còn.” Từ trái, các anh Toàn, Châu trong ban tổ chức tại địa phương cuộc viếng thăm New Orleans, và Triều Giang, hội trưởng, người ngồi là chị Long Mai, một hội viên đến từ Austin, đang lắng nghe linh mục nói. Phải, Linh mục Michael Nguyễn Hoàng Nam, chánh xứ Giáo xứ Kitô Vua ở tây ngạn New Orleans và là cố vấn của hội, phải, đang cùng với Linh mục Nghiêm cắt bánh sinh nhật mừng hội lên 10. (Ảnh VAHF)
Tôi trở lại New Orleans, theo chân Hội Bảo tồn Văn hoá và Lịch sử người Mỹ gốc Việt (Vietnamese American Heritage Foundation -- VAHF) nhân kỷ niệm 10 năm hoạt động nhằm xây dựng bộ sử di dân của người Việt, do các thân hữu địa phương tổ chức như một cách bầy tỏ sự quan tâm tới và hỗ trợ các công việc của những anh chị em tất cả là tình nguyện trong hội VAHF. Có lẽ không nơi nào ý nghĩa hơn cho hội VAHF mừng 10 năm hoạt động là New Orleans, nơi của những con người không chịu để nghịch cảnh khuất phục mình.

Đây là lần thứ năm tôi trở lại thành phố này, thành phố mà với tôi đã trở thành biểu tượng của sức sống còn không những của New Orleans nói chung, mà đặc biệt của cộng đồng người Việt tại đây, nhiều người đã có tới bốn lần xây dựng lại cơ đồ -- hai lần bỏ cửa nhà làng mạc chạy nạn cộng sản năm 1954 và rồi 1975; một lần với đại thiên tai Katrina năm 2005; và lần cuối là nạn nhân tai dầu rò BP năm 2010 làm ô nhiễm cả một vùng Vịnh Mexico, nguồn sinh sống của bao nhiêu con người và sinh vật. Tôi vốn thường có cảm tình đối với những cảnh đời đã có thể từ vực thẳm vươn lên với sức chịu đựng can trường và như thể thách thức nữa. Ngoài ra, New Orleans còn lôi kéo tôi ở nét văn hoá đặc thù rơi rớt của thuở tiểu bang Louisiana còn thuộc Pháp, cái văn hoá đã trở nên một phần di sản của đời sống tinh thần của tôi.

Suốt năm ngày ở New Orleans, từ 28 tháng 2 tới ngày 4 tháng 3, phái đoàn VAHF gồm gần hai chục anh chị em đến từ Tiểu bang Oregon, Orange County, San Francisco, Austin và Houston, đã được các vị lãnh đạo tinh thần và anh chị em địa phương tiếp đãi ân cần, lo cho từ miếng ăn, chốn nghỉ. Đặc biệt anh chị John Hoà Nguyễn, người phối hợp chương trình của năm ngày, đã dành cho nguyên một căn nhà bỏ trống để phái đoàn nghỉ ngơi, với các bà chiếm hết các phòng ngủ trong khi các ông mỗi người một tấm nệm nằm la liệt các nơi, kể cả trong phòng giặt bỏ trống, rất ư là “dã chiến” như thời còn là học sinh, sinh viên.Chúng tôi cảm thấy như trẻ lại, và cũng thật là vui vẻ và ấm cúng.

“Tôi thay mặt cho anh chị em vùng New Orleans đứng ra tổ chức các buổi gọi là viếng thăm New Orleans để mời quý anh chị về đây để có dịp chính thức cám ơn và hỗ trợ công việc làm của các anh chị,” anh John Hoà nói. “Ghi lại lịch sử bi hùng của người Việt tị nạn sau 1975 rất là cần thiết. Nếu chúng ta không ghi lại thì con cháu chúng ta sẽ không biết được những sự kiện đã xẩy ra vì những gì được ghi lại trong sử sách các em học ở nhà trường cũng như có nhiều sách vở hiện đang lưu hành đã ghi ngược lại những gì đã thực sự xẩy ra đưa đến cuộc tị nạn của chúng ta. Và hội Bảo tồn Văn hoá và Lịch sử người Việt tị nạn đã đứng ra làm việc này.”

Từ trái, anh John Hoà, nói với phóng viên Mỹ Lợi của Việt Vùng Vịnh về sự cần thiết phải thiết lập một bộ sử của người Việt tị nạn để nói lên sự thật vì sao trên một triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi để tìm tự do, công bằng và nhân phẩm để thay thế cho những tuyên truyền xuyên tạc của cộng sản Việt Nam lâu nay. Bác sĩ Trần Văn Đức, đến từ Austin, bầy tỏ niềm mong muốn bộ sử không những để cho các thế hệ con cháu của người tị nạn mà trong tương lai còn để cho người Mỹ cũng như các thế hệ trẻ ở Việt Nam biết lý do tại sao ngườì Việt phải rời quê hương ra đi bất chấp hiểm nguy, chết chóc. Tiến sĩ Đặng Thiệu, trong ban điều hành của hội và đến từ Houston, nói về việc đưa bộ sử người Việt tị nạn vào các đại học tại Hoa Kỳ. Và bên phải, chị Nguyễn Mỹ Ngọc, cựu hội trưởng hội Ái Hữu Nữ Trung học Gia Long ở Nam  California và là một tình nguyện viên đã theo phái đoàn đi phỏng vấn tại New Orleans và Denver, nói về nội dung của mỗi cuộc phỏng vấn có thu hình dài trung bình hai tiếng. (Ảnh VAHF) 
Ngoài ra, anh chị “ngư phủ” Phong và Liên cũng mở cửa ngôi nhà xây lại hoàn toàn từ móng sau Katrina ở vùng Burnas phía nam New Orlean bên Vịnh Mexico ra đón phái đòan VAHF chúng tôi vào chơi hai ngày một đêm, đã đãi chúng tôi bằng những bữa ăn bằng hải sản chài bắt được trong Vịnh và rau trái trồng trong vườn nhà. Không những thế, anh chị còn bỏ hơn nửa ngày đưa chúng tôi ra Vịnh Mexico để có dịp quan sát anh chị chài lưới bắt tôm cá, một kinh nghiệm hoàn toàn xa lạ đối với nhiều người trong chúng tôi. Anh Phong, ngoài đi biển, còn là nhân viên của Coast Guard như một chuyên viên phụ trách liên lạc các ngư phủ người Việt, và nghề chài lưới chỉ là nghề tay trái, mặc dù trước khi vào làm việc với chính phủ anh cùng với chị đã sống bằng nghề cào tôm và nuôi sáu con tất cả nay đã thành đạt.

Đặc biệt ban tổ chức còn thu xếp để chúng tôi có dịp tham dự lễ hội tiền Mardi Gras, dịch nôm na là thứ Ba Mập, vào ngày thứ Hai – ở New Orleans họ thích gọi đó là Lundi Gras, Thứ Hai Mập. Mardi Gras là một ngày lễ truyền thống mọi người ăn chơi hội hè thả cửa trước khi bước vào mùa chay của đạo Thiên Chúa (Catholics), bắt đầu từ nửa đêm về sáng ngày thứ Tư kéo dài cho tới Lễ Phục Sinh, tức Easter. Năm nay một đoàn múa lân của các em thuộc cộng đoàn Nhà thờ WoodLawn, dưới sự điều hợp và hướng dẫn của anh John Hoà Nguyễn, anh chị Phạm Duy Văn và Hương, đã được mời tham dự buổi diễn hành tiền Mardi Gras. Hôm sau ngày chính thức của lễ hội thì trời mưa và gió lạnh, cho nên mặc dù chương trình đã sắp sẵn cho chúng tôi đi xem diễn hành, thế nhưng các “bô lão”, chiếm một số lớn trong phái đoàn, xin kiếu ở lại nhà trọ xem… diễn hành Mardi Gras trên truyền hình. Buổi chiều chúng tôi đi thăm viếng cảm tạ sự khuyến khích và hỗ trợ của các vị lãnh đạo tinh thần như Thượng toạ Thích Tâm Nguyên và các linh mục Michael Nguyễn Hoàng Nam và Nguyễn Văn Nghiêm.

Lần đầu tiên anh bạn phóng viên Mỹ Lợi của Việt Vùng Vịnh từ San Francisco mang đồ nghề qua theo chúng tôi làm phóng sự về năm ngày sinh hoạt này. Bài phóng sự dài 30 phút của anh đã ghi lại đầy đủ chi tiết của từng ngày, với những cuộc phỏng vấn chớp nhoáng song chi tiết các thành viên của hội VAHF về các sinh hoạt xây dựng bộ sử, cũng như sự cần thiết của bộ sử của người Việt tị nạn qua cái nhìn của các vị lãnh đạo tinh thần và thân hữu của VAHF tại New Orleans.(*)

Nhờ có anh Mỹ Lợi làm việc ghi chép này, nên tôi tự cho phép mình gác máy hình qua một bên, và thả suy nghĩ về dĩ vãng của 10 năm về trước…

Từ những thùng tài liệu mốc meo của Hội Gia đình Các Tù nhân Chính trị Việt Nam…

Trên 10 năm về trước, Triều Giang, với tư cách một nhà báo và là tác giả của cuốn tự truyện “Bọt Biển” (Ngày Nay, Houston, 1987) dựa trên sự thật của thảm cảnh thuyền nhân mà chị cũng là một trong những thuyền nhân đến Songkhla cùng hai đứa con thơ vào năm 1979, đi tìm tài liệu để viết lại cuộc đời của Bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Gia đình Các Tù nhân Chính trị Việt Nam, nôm na là “tù cải tạo” hay “HO”. Bà Thơ là một người đã, từ những năm cuối thập niên 1970, cùng với các thân hữu thành lập hội này tại Hoa Thịnh Đốn để vận động các chính giới Hoa Kỳ can thiệp cho các tù nhân chính trị Việt Nam được trả tự do và sang định cư tại Mỹ.

Trái, phái đòan chụp hình lưu niệm với các em trong đoàn múa lân Woodlawn Lion Dance Team sẽ diễn hành vào ngày tiền lễ hội truyền thống Mardi Gras. Phải, đòan múa lân diễn hành cùng với các xe hoa và các ban nhạc của các trường trung học ở New Orleans. (Ảnh VAHF)
Kết quả của 20 năm làm việc không ngừng nghỉ ấy là sự hiện diện của trên 300,000 cựu tù nhân chính trị và thân nhân của họ tại Hoa Kỳ kể từ đầu thập niên 1990. Vào đầu thập niên 2000, Triều Giang được bà Thơ đồng ý cho chị “xục xạo” vào đống tài liệu nặng khoảng 6,000 lbs chứa trong khoảng 300 thùng giấy banker’s box, tính ra gồm vào khoảng 200,000 trang giấy đủ cỡ, với rất nhiều trang viết tay của các cựu tù nhân chính trị gửi cho hội xin can thiệp trên giấy mầu vàng hay xám xịt, loại giấy thông dụng ở Việt Nam hồi trước “đổi mới”, chồng chất trong cái basement của căn nhà của bà Thơ tại Virginia, nơi thỉnh thoảng còn bị mưa lụt.

… Đến sự ra đời của hội VAHF

Trước đống tài liệu ngồn ngộn và đang ở trong tình trạng dần hư nát này, hai người phụ nữ nhìn nhau với câu hỏi lớn trong ánh mắt: phải làm gì với đống tài liệu, công lao cũng như kỳ vọng của bao nhiêu người trong suốt 20 năm qua đang bị hư hại này? Từ đó là sự hình thành của hội vô vị lợi Bảo tồn Lịch sử Và Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt (Vietnamese American Heritage Foundation, tắt là VAHF) do chín sáng lập viên quyết định thành lập vào tháng 10 năm 2004 để giải quyết việc trước mắt: cứu vãn 200,000 ngàn trang tài liệu của Hội Gia đình Các Tù nhân Chính trị Việt Nam (Families of Vietnamese Political Prisoners Association, viết tắt là FVPPA).

Dù vậy, lý do sâu xa của việc lập hội VAHF là do chỗ các anh chị em trong ban sáng lập nhận thấy nhu cầu cấp bách không thể trì hoãn thêm nữa sau trên ba thập niên sinh sống tại Hoa Kỳ, đó là việc phải xây dựng một bộ sử của người di dân Việt tại Mỹ để nói lên lý do thực sự tại sao chúng ta đến đây, hầu để lại cho các thế hệ tương lai vốn chịu ảnh hưởng bởi sách vở với nhiều sự kiện sai lạc do tuyên truyền của cộng sản vẫn còn đầy dẫy trong sách vở nhà trường, thư viện mà các con em người Mỹ gốc Việt phải học tập.

“Chúng tôi đã ngồi lại với nhau và suy nghĩ thấy rằng mình phải, bằng cách này hay cách khác, giúp cho con em của mình, không những con cháu của chúng ta mà cả những người Mỹ, không những tại Mỹ mà tất cả các giới trẻ con tại Việt Nam nữa, thấu hiểu được lý do tại sao có hơn một triệu người Việt phải bỏ nước ra đi bất chấp hiểm nguy chết chóc,” Bác sĩ Trần Văn Đức, một trong những sáng lập viên hội VAHF, tâm sự. “Chúng ta ra đi vì tự do, vì công bằng.”

Chương trình 500 Lịch sử Truyền khẩu (oral history) và gần 60 ngàn đô của Liên hội Sinh viên Việt Nam Bắc Mỹ tặng

Cho tới nay, 10 năm kể từ sau khi thành lập, với sự tiếp tay của nhiều tình nguyện viên bên cạnh sự hỗ trợ cả tinh thần lẫn vật chất của các cộng đồng người Việt tị nạn trên toàn nước Mỹ qua những cuộc vận động gây quỹ, VAHF đã hoàn tất, ngoài bộ sưu tập FVPPA hiện đang ở trong giai đoạn chót là vi tính hoá (digitization) tại Vietnam Center thuộc trường đại học Tech Texas ở Lubbock (**), là bộ sưu tập về cuộc di tản năm 1975 do chính quyền đảo Guam trao tặng năm 2006.

Song đặc biệt hơn cả là bộ sưu tập 500 Lịch sử Truyền khẩu đã hoàn tất phần phỏng vấn. Bộ sưu tập này hiện đang được sang băng, dịch thuật và thiết lập văn khố với sự hợp tác của các trường Đại học University of Texas tại Austin, Đại học Houston, Đại học Rice ở Houston, Đại học Tech Texas tại Lubbock, và Đại học University of California tại Irvine.

Tôi đã may mắn có dịp cùng đi với Triều Giang, hội trưởng VAHF, và nhiều anh chị em tình nguyện khác, tuổi từ 19 tới ngoài 70, suốt chặng đường dài hơn một năm, từ mùa xuân 2010 tới mùa hè 2011, vòng quanh nước Mỹ tới những nơi có đông đảo người Việt định cư, như San Jose, Calif.; Washington D.C.; Westminster, Calif.; Houston, Texas; New Orleans, Louisiana; và Denver, Colorado để thực hiện chương trình 500 Lịch sử Truyền khẩu.

Ấy vậy mà cũng có những trường hợp chúng tôi đã tới quá trễ vì một số người nhận cho phỏng vấn đã ra đi vì lớn tuổi và bệnh tật. Trường hợp điển hình khiến chúng tôi rất tiếc nuối, đó là sự ra đi của ký giả Nguyễn Tú, nguyên là ký giả của nhật báo Chính Luận ở Saigòn trước 1975, ngưởi đã đi theo đoàn người di tản khỏi Cao nguyên vào những ngày tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà, và là tác giả của những bài tường thuật đẫm nước mắt, máu và xác người. Vài ngày trước khi lên đường đi Washington D.C., nơi ông cư trú, thì chúng tôi được tin ông qua đời.

Điều khiến tôi xúc động nhất là, mặc dù đã gần bốn thập niên kể từ khi chúng ta phải cắn răng gạt nước mắt từ bỏ quê cha đất tổ và thân bằng quyến thuộc để ra đi lánh nạn cộng sản độc tài đảng trị -- với nhiều người thì đây là lần tay trắng di cư thứ hai -- nhưng những hoài niệm về những ngày tang thương 1954 và 1975 vẫn còn sống động trong tâm khảm. Và họ đã sẵn sàng chia sẻ với các anh chị em tình nguyện viên của hội qua những cuộc phỏng vấn có thu hình, mỗi cuộc phỏng vấn như vậy dài hai tiếng, có khi hơn, và nhiều khi đẫm trong nước mắt. (***) Và đã hẳn là còn hàng trăm ngàn người khác đã vùi thân dưới biển hay trong rừng sâu trên đường đi tìm tự do, do thân nhân sống còn kể lại.

Trái, anh Phong trong buồng lái của chiếc tầu đánh cá của mình mỉm cười nói sau cơn bão Katrina năm 2005, khi anh về được tới nhà thì “chỉ lượm được có 29 cục gạch còn sót lại” của căn nhà đã bị bão cuốn lên tuốt lên bờ đê vỡ tan tành. Phải, thay mặt phái đòan, Triều Giang đang ngỏ lời cám ơn anh chị Phong sau chuyến đi chơi vịnh. Người đúng giữa (áo trắng) là chị Liên, phu nhân của anh Phong, cũng rất thành thạo trong việc chài lưới, và anh Phong, góc phải. (Ảnh VAHF)
 Tôi cũng vô cùng cảm động khi biết các em trong Liên hội Sinh viên Việt Nam tại Bắc Mỹ (Union of North American Vietnamese Student Associations, uNAVSA) đã phát động chiến dịch gây quỹ có tên là “Chương sử của chúng ta - Lịch sử Người Mỹ Gốc Việt: Cha anh kể lại, Giới trẻ bảo tồn” (Chapter of Us – Vietnamese American History: Told by the Old, Preserved by the Young).

Và cũng chính nhờ số tiền gần 60,000 Mỹ kim do các em gây quỹ được trong năm 2009 mà, thay vì 10 năm như dự trù, VAHF đã, trong có hơn một năm, hoàn tất được phần thu thập trên 500 câu chuyện truyền khẩu – chính xác là con số 514 câu chuyện truyền khẩu đếm được ở ngày kết thúc giai đoạn phỏng vấn tại Denver vào tháng 7 năm 2011, tại Giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức mà Linh mục Đức Ông Nguyễn Quang đã có nhã ý cho phái đòan mượn khu trường học của giáo xứ đang đóng cửa nhân dịp hè để làm việc.

Bộ sưu tập 500 Lịch sử Truyền khẩu này hiện đang được sang băng và dịch thuật và sẽ được lưu giữ tại các trường Đại học Texas tại Austin, Đại học Houston, Đại học Rice và Đại học California tại Irvine cho các công cuộc khảo cứu về lịch sử người Việt tại Mỹ, hiện đã lên tới 2 triệu, do chính người Việt tại Mỹ kể lại.
Ngoài ra, một bộ phim tài liệu tựa đề “Hành trình Tìm Tự do” (“Journey to Freedom of Vietnamese Americans”) cũng đang được thực hiện, dự trù hoàn tất trong năm nay. Bộ phim gồm sáu phần, mà phần đầu, Triều Giang cho biết, đang ở giai đọan ráp nối và hy vọng sẽ hoàn tất trong năm nay. Được biết bộ phim sẽ do chuyên viên viết truyện phim, bà Elizabeth Orr, viết phân cảnh và sẽ được diễn giải bởi Peter Coyte, người đã diễn giải nhiều phim tài liệu nổi tiếng trong đó có bộ “Dust Bowl” của nhà làm phim tài liệu tên tuổi Ken Burns.

Bộ phim tài liệu này, cùng với các bộ sưu tập 500 Lịch sử Truyền khẩu , bộ sưu tập Tù nhân Chính trị Việt Nam, và bộ sưu tập về đợt di cư tại Guam năm 1975 sẽ là những tài liệu chứng nhân (primary source) mà chúng ta thu thập được để trao lại cho các thế hệ con em, và để đóng góp vào bộ lịch sử của hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, một quốc gia được tạo thành và phát triển bởi di dân từ khắp các nơi trên thế giới. [TD, 03/2014]

Chú thích:
(*) Video phóng sự “New Orleans: Nhật ký 5 ngày mừng hội VNHF 10 năm thành lập” tại http://vietvungvinh.comhttp://youtu.be/5Yj96BEE7E0.

(**) Tìm hiểu về hành trình thiết lập văn khố cho bộ sưu tập Hội Gia đình của Tù nhân Chính trị Việt Nam (Families of Vietnamese Political Prisoners Association – FVPPA), mời đọc “Chuyện trò với Ann Mallett về việc soạn bộ sưu tập Tù nhân Chính trị Việt Nam” tại http://www.hopluu.net/D_1-2_2-117_4-341_5-4_6-4_17-14_14-2_10-92_12-1/


(***) Tìm hiểu thêm về nội dung của các cuộc phỏng vấn qua bài viết tiêu biểu và cảm động của Phạm thị Diễm Hương, một tình nguyện viên đã từng đi theo phái đòan phỏng vấn tới làm việc tại Houston, New Orleans và Denver, “Houston những ngày đáng nhớ”, tại http://www.hopluu.net/D_1-2_2-125_4-1677_5-4_6-1_17-1_14-2_10-306_12-1/