Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014
Đoàn Viết Hoạt - Tiếp Cận Tây Phương: Nhật Bản, Trung Hoa và Việt Nam
![]() |
Hình: Minh Huyen Nguyen |
Sau gần hai thế kỷ thực hiện cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ nhất, từ khoảng 1760 đến giữa thế kỷ 19, với sự ra đời của máy chạy bằng hơi nước, các nước Âu-Mỹ đã nhanh chóng trở nên hùng mạnh và thịnh vượng vượt bực. Cuối thế kỷ 19, điện năng được chế tạo và sử dụng trong công nghiệp, đưa các nước Âu châu vào giai đoạn công nghiệp hóa lần thứ hai. Với lực lượng hải quân trang bị vũ khí mạnh cùng với các đội thương thuyền lớn vượt đại dương mang hàng hóa đến khắp nơi trên thế giới, giữa thế kỷ 19, các nước Tây phương đã tràn đến Á châu chiếm đóng nhiều nước làm thuộc địa. Trong bài này chúng tôi sẽ điểm qua chính sách đối phó với Tây phương của 2 nước Nhật Bản và Trung Hoa, và đối chiếu với chính sách của Việt Nam.
![]() |
Hình:internet |
Lịch
sử cho thấy Nhật Bản, như là một quốc gia, hình thành chậm hơn nhiều quốc gia
khác trong khu vực Đông Bắc Á. Ngay cả việc trồng lúa, theo sử liệu, cũng chỉ được
du nhập vào Nhật Bản khoảng năm 100 trước Công Nguyên. Việc chế tạo và sử dụng
sắt cũng được du nhập từ Triều Tiên. Quốc gia Nhật Bản có kinh đô và Thiên
hoàng, nhưng sự tranh chấp giữa các thủ lãnh địa phương và các đại gia đình quý
tộc kéo dài suốt chiều dài lịch sử Nhật Bản. Cho đến giữa thế kỷ 16, Nhật Bản mới
bắt đầu tạm ổn định, dù tranh chấp quyền lực vẫn còn diễn ra giữa một vài đại
gia quyền quý. Đây cũng là thời kỳ mở đầu cho nước Nhật tiếp cận với Tây
phương.
Người
Bồ Đào Nha đến Nhật năm 1543và mở ra thời kỳ mậu
dịch kéo dài gần một thế kỷ. Người Tây Ban Nha đến Nhật năm 1587, tiếp đó là người Hòa Lan, năm
1609. Thiên chúa giáo
đến Nhật năm 1549 và sau một thời gian ngắn đã có tới khoảng 100.000 đến
200.000 người Nhật trở thành tín đồ Thiên chúa giáo. Những nhà lãnh đạo Nhật Bản
từ đó đã bắt đầu tìm hiểu phương Tây, chú ý đến các cơ hội mới để phát triển
kinh tế, cũng như sự thách thức chính trị đối với quyền lực của họ. Năm 1587,
lãnh chúa Hideyoshi cho rằng sự có mặt của đạo Ki-tô làm chia rẽ nội bộ Nhật Bản,
làm chiêu bài cho Châu Âu xâm chiếm Nhật. Luật cấm đạo Thiên Chúa đã được ban
hành, nhưng chưa được thi hành triệt để. Trong thời gian cầm quyền của Mạc Phủ Tokugawa (Đức Xuyên Mạc Phủ),
cũng gọi là Mạc Phủ Edo, kéo dài từ 1603 cho đến năm 1868, Nhật Bản áp dụng
chính sách Sakoku (tỏa quốc) đóng cửa biên
giới Nhật, không cho Tây phương vào, trừ Hòa Lan, Trung Hoa và Triều Tiên.
Cùng
với chính sách tỏa quốc này, năm 1620, luật cấm đạo Ki tô được triệt để áp dụng.
Tất cả những nhà giảng đạo ngoại quốc đều bị trục xuất khỏi nước Nhật. Toàn bộ
các cộng đồng giáo dân bị tiêu diệt, tất cả nhà thờ bị phá hủy. Những người
theo đạo Ki tô đều phải lẩn trốn, nhiều người phải sống trong những nhà hầm dưới
đất để có thể tiếp tục sinh hoạt đạo. Việc buôn bán của người Âu Châu thì vẫn
được phép tiếp tục. Chính sách cấm đạo gắt gao, triệt để này kéo dài cho đến thập
niên 1870 mới chấm dứt, và hoạt động Ki tô giáo mới chính thức được phép tiến
hành trở lại. Có lẽ ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo cùng tinh thần võ sĩ đạo đã
hậu thuẫn cho chính sách chống Ki tô giáo quyết liệt, triệt để và lâu dài này của
Nhật Bản. Và có lẽ đó cũng là lý do khiến Ki tô giáo không phát triển mạnh được
ở Nhật, như ở một số nước Á châu khác.
Năm
1853 và 1854, Thuyền trưởng hải quân Mỹ Matthew
C.Perry đã buộc được Nhật Bản phải mở cửa cho Mỹ vào buôn bán. Nhiều quốc
gia khác cũng gây áp lực buộc Nhật Bản phải ký kết các hiệp ước buôn bán bất
bình đẳng. Việc này gây bất mãn trong dân chúng, và nhất là trong giới đại danh
gia. Phái yêu nước phát động chiến dịch sonnō jōi (nghĩa là Tôn
Hoàng, Nhương Di), tôn trọng Thiên hoàng để đuổi người ngoại quốc ra khỏi xứ sở.
Cuối cùng Thiên hoàng Minh trị thắng thế Mạc Phủ, lên ngôi năm 1867, và thực hiện
chính sách mở cửa với Tây phương và canh tân nước Nhật.
Nói
về nước Nhật hiện đại không thể không nhắc đến Fukuzawa
Yukichi (1835-1901), một
người được coi như Voltaire của nước Nhật. Fukuzawa xuất thân trong một gia
đình võ sĩ đạo, thuộc đẳng cấp thấp. Ông học tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, sớm có
tư tưởng tự do, phóng khoáng. Ông có nhiều dịp tháp tùng các phái đoàn chính
quyền Nhật đi Mỹ và Âu châu. Ông thấy được vai trò quan trọng của giáo dục nên
đã viết sách và mở trường, và đã lập ra trường đại học đầu tiên của nước Nhật
(Keio-Gijuku University). Trong các trước tác của ông, đáng kể là cuốn tự điển
Anh-Nhật, tự điển đầu tiên tại Nhật, bộ sách địa lý thế giới và bộ sách ký sự kể
về đời sống Âu-Mỹ, kể lại những gì ông biết về Tây phương, qua các chuyến đi công
tác của ông. Ông đưa ra quan điểm “độc lập
quốc gia qua độc lập cá nhân”, theo đó ông muốn mỗi người dân Nhật phải
tăng cường sức mạnh và hiểu biết của bản thân, để cùng nhau xây dựng một nước
Nhật hùng cường, đủ sức cạnh tranh với tất cả các nước. Ông cho rằng các nước
Tây phương hùng cường được là nhờ tập trung vào giáo dục, phát huy sự độc lập
cá nhân, sự cạnh tranh và trao đổi tư
tưởng.
Như thế, nước Nhật lúc đầu cũng
kháng cự lại sự xâm nhập của Tây phương, bằng chính sách bế môn tỏa cảng, trong
một thời gian lâu dài, từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19. Áp lực quân sự
cùng các hiệp ước buôn bán bất bình đẳng đã làm cả triều đình và giới thức giả,
võ sĩ đạo, cùng thức tỉnh, nhanh chóng nhận ra sự yếu kém của nước Nhật nên chấp
nhận mở cửa canh tân nước Nhật. Với sự đồng thuận quốc gia cao độ như thế, chỉ
trong vòng vài thập niên, Nhật Bản đã trở nên hùng cường, đủ sức đánh bại quân
đội nhà Thanh năm 1894-1895, và phá tan cả lục quân và hải quân Nga năm 1904-1905.
Trung Quốc
Nhìn
sang Trung Quốc, tình hình khác hẳn. Trước khi sức mạnh quân sự và thương mại Tây
phương tràn đến Trung Hoa, quốc gia này là một đế chế hùng mạnh nhất ở Á Châu. Theo
nhiều sử liệu thì ngay từ thế kỷ 15, Đô đốc Trịnh Hòa đã có lúc chỉ huy một hạm
đội gồm 300 thuyền buồm và 30.000 người đi qua eo biển Malacca, ghé Bengal, Ấn
Độ và vài nơi ở Đông Phi. Dưới đời vua Ung Chính, vào giữa thế kỷ 18, nước
Trung Hoa có lúc đã bành trướng lãnh thổ, rộng đến 13 triệu cây số vuông, so với
ngày nay là 9.6 triệu. Nhưng kể từ đầu thế kỷ 19 trở đi, Trung Hoa suy yếu dần
với nội loạn và ngoại xâm. Bên ngoài thì đế chế Trung Hoa bị các cường quốc Âu
châu áp bức. Bên trong thì kinh tế trì trệ, nhân dân cùng khổ, nổi loạn khắp
nơi. Miền Nam Trung Hoa bị nhóm Thái Bình Thiên Quốc của người Hán quấy phá,
chiếm đóng nhiều vùng, giương ngọn cờ “phản
Thanh phục Minh”. Quan lại thì tham nhũng, lạm quyền bóc lột nhân dân. Triều
đình thì mâu thuẫn, bất hòa. Năm 1861 nhân lúc vua mất, Từ Hy Thái Hậu thực hiện
đảo chính cung đình, bắt giam 8 vị quan trong ban nhiếp chính, chiếm đoạt hoàn
toàn quyền lực chính trị. Từ đó cho đến khi bà mất năm 1908, bà nắm trọn quyền
lực chính trị, quyết định những vấn đề trọng đại nhất của Trung Hoa.
Từ
Hi Thái Hậu nắm quyền bính đúng vào lúc Âu-Mỹ tràn đến uy hiếp Trung Quốc. Bà để
lại một di sản chính trị gây nhiều tranh cãi. Trước đây, dư luận quốc tề thường
đưa ra những nhận định tiêu cực về bà và cho rằng bà đã gây ra sự sụp đổ của
nhà Thanh và của Trung Hoa. Nhưng nhiều nghiên cứu gần đây đã đánh giá lại công
việc trị quốc của bà, trong đó có những nhận định khách quan cho rằng sự sụp đổ
của nhà Thanh nói riêng, và của chế độ phong kiến nói chung tại Trung Hoa, là hệ
quả tất nhiên của thời đại hơn là trách nhiệm của cá nhân Từ Hi Thái Hậu.
![]() |
Hình: internet |
Sử
gia Sterling
Seagrave, trong cuốn sách xuất bản năm 1992, cho rằng Từ Hi Thái Hậu
là một nhà lãnh đạo bị mắc kẹt giữa khuynh hướng bài ngoại, vốn có của triều
đình, với khuynh hướng chính trị thực tế, hợp thời đại hơn. Bà muốn dùng ảnh hưởng
và quyền lực của mình để duy trì được triều đại nhà Thanh không bị sụp đổ vì sự tranh chấp
giữa hai khuynh hướng chính trị này.
Những
diễn biến lịch sử Trung Hoa trong thời kỳ hậu bán thế kỷ 19 cho thấy quan điểm
này có cơ sở. Ngay sau khi đế chế hùng mạnh Trung Hoa bị thất bại trong các trận
chiến tranh với các nước Âu châu, nhiều người trong giới sĩ phu và quan lại
Trung Hoa, cả người Mãn và người Hán, đều cho rằng phải nhanh chóng thay đổi. Họ
chủ trương cuộc “vận động tự cường”.
Đại diện cho nhóm này là Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương. Họ tìm đến một số
ít sinh viên đã du học ngoại quốc, trong đó có Ung Wing đã học ở Yale năm 1854.
Ung Wing đề nghị triều đình gửi 120 sinh viên du học, phần lớn qua Mỹ. Từ Hi
cũng cho mua 4 tầu chiến của Anh, nhưng khi tầu chiến về đến Trung Hoa, trên tầu
toàn binh lính Anh, họ chỉ tuân theo lệnh của chính phủ Anh nên Từ Hi cho trả tầu
về lại Anh. Từ Hi cũng cảnh giác với những quan điểm tự do dân chủ của các du học
sinh, do đó, năm 1881 bà không cho gửi học sinh đi du học nữa. Cuộc “vận động tự cường” coi như chấm dứt.
Tuy
nhiên sự thất bại của Trung Hoa trong các cuộc chiến với các nước Tây phương đã
làm giới nho sĩ thức tỉnh. Nhiều người đã khuyến nghị triều đình thực hiện cải
cách sâu rộng. Trong số này có Ngụy Nguyên và Phùng Quế Phương, từ năm
1842, đã đưa ra kế hoạch mà họ gọi là Trù
Hải Thiên, là kế hoạch phòng thủ duyên hải. Họ đề nghị mở cửa cho người nước
ngoài vào làm ăn buôn bán, canh tân quân sự, bang giao với nhiều nước khác nhau
để họ cầm chân nhau. Riêng Phùng Quế Phương, đã sống ở Thượng Hải thuộc Anh, chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản, đã đề nghị canh cải giáo dục, học các môn khoa
học, kỹ thuật và kinh doanh tư bản. Ông cũng đưa ra lý thuyết Thể Dụng, duy trì tinh thần Khổng Mạnh
nhưng áp dụng khoa học kỹ thuật của phương Tây.
Những
vận động canh tân này đều nằm trong phong trào Dương vụ (Yanwu) do Lý Hồng
Chương, Tăng Quốc Phiên chủ trương, được nhiều quan lại cấp tiến ủng hộ. Họ kêu
gọi liên kết với tư bản Âu-Mỹ, mở các công xưởng quân sự, chế tạo máy móc, vũ
khí. Nhờ phong trào này, đã xuất hiện một số xí nghiệp tư doanh và hợp doanh giữa
tư nhân và chính phủ. Tại nhiều địa phương, những người có tiền đã mua sắm máy
móc, mở công ty. Đồng thời các nhà tư bản Âu-Mỹ cũng mở các công xưởng chế tạo
sản phẩm tiêu dùng tại các địa phương mà triều đình nhà Thanh buộc phải nhượng
cho họ.
Những
canh cải trên đây phần lớn do các nho sĩ tiến bộ và những người giầu có chủ
trương và chủ động thực hiện. Nhưng phong trào Dương vụ cũng như cuộc vận động tự
cường không chủ trương thay đổi thể chế chính trị. Phải đến khi xẩy ra chiến
tranh Trung-Nhật, việc một nước nhỏ yếu hơn đánh thắng một đế chế từng tự hào
thống lãnh toàn “thiên hạ” đã làm dấy lên phong trào đòi thay đổi toàn diện.
Hai
người đi đầu trong phong trào này là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, đưa ra khẩu
hiệu vận động “toàn biến, tốc biến”
(biến đổi toàn diện và nhanh chóng). Họ vận động các nho sinh cử nhân cùng họ
dâng kiến nghị lên triều đình. Lương Khải Siêu dẫn 190 cử nhân lên kinh đô luận
bàn thời cuộc. Khang Hữu Vi cùng 3,000 cử nhân dâng thư xin thực hiện “biến pháp”. Nhưng những đề nghị của hai
nhóm này đều không được triều đình chấp thuận.
Năm
1896 Khang Hữu Vi lại khuyến nghị biến pháp, kêu gọi duy tân. Lần này vua Quang
Tự đang nắm thực quyền, Từ Hi Thái Hậu đã rút vào hậu trường. Vua cũng muốn
canh tân nên đã cho mời Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu vào triều bàn luận. Tất
cả các đề nghị của hai ông đều được nhà vua chấp thuận, từ việc canh tân giáo dục,
cải tổ thi cử, đến lập ngân hàng, làm đường xe lửa, lập hội buôn, mở rộng ngôn
luận… Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn một trăm, đạo chiếu được ban ra để thực
hiện các cải cách này. Từ Hi biết được đã tìm cách ngăn cản và ra lệnh giam lỏng
Quang Tự. Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đều phải bỏ trốn qua Nhật. Lich sử
sau này gọi đây là cuộc cải cách 100 ngày (Bách
nhật duy tân).
“Tự
cường”, “Dương vụ” hay “Duy tân” đều giống nhau ở một điểm: vẫn duy trì chế độ
quân chủ chuyên chế. Nhiều trí thức tân học không đồng ý duy trì chế độ quân chủ
chuyên chế. Những người này chia thành hai khuynh hướng. Một khuynh hướng chủ
trương chế độ quân chủ lập hiến như Nhật Bản, trong đó có Viên Thế Khải, có lúc
đã xưng vương một thời gian ngắn, sau lại vận động để được làm Tổng Thống Lâm Thời,
sau cách mạng Tân Hợi 1911. Một khuynh hướng khác, chủ trương phế bỏ chế độ quân
chủ, thay thế bằng chế độ dân chủ. Người đứng đầu khuynh hướng này, Tôn Dật
Tiên, đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tân Hợi lập ra nước Cộng Hòa Trung
Hoa, và những người Cộng sản, hiện đang lãnh đạo nước Trung Hoa cộng sản.
Như
vậy tại Trung Hoa, việc Tây phương tràn vào xâm lấn, xâu xé và hạ nhục Trung Quốc,
đã tạo ra 3 khuynh hướng chính trị với 3 phản ứng khác nhau. Khuynh hướng bảo
hoàng thì tìm cách canh tân đất nước trong khuôn khổ chế độ quân chủ Khổng
giáo. Khuynh hướng thứ hai chủ trương canh tân theo mô hình quân chủ lập hiến.
Khuynh hướng cách mạng chủ trương thiết lập chế độ dân chủ như các nước Tây
phương. Khuynh hướng này thắng thế nhưng lại dẫn đến tranh chấp giữa hai đường
lối cách mạng và kiến thiết, hoàn toàn khác nhau, mà hậu quả là đã tạo ra hai
nước, hai chính thể Trung hoa như hiện nay.
Kết luận
So sánh hai trường hợp Nhật Bản và
Trung Quốc, chúng ta thấy có một điểm tương đồng. Cả hai nước đều “may mắn”
chưa bị chiếm đóng nên kịp canh tân đất nước, dù cả hai đều bị áp lực bằng quân
sự, và phải nhượng bộ hoặc một số vùng đất nước (Trung Quốc), hoặc mở một số
hải cảng cho ngoại xâm vào buôn bán (cả Trung Quốc và Nhật Bản). Việt Nam thì
khác, bị Pháp chiếm đóng toàn bộ miền Nam đất nước ngay từ những năm đầu đụng
chạm với quân lực Pháp. Và Pháp tiếp tục tiến đánh cho đến khi chiếm được toàn
bộ Việt Nam. Sự kiện tầu Mỹ bắn phá ngoại ô Tokyo và tầu Pháp bắn phá Thuận An
gần như cùng một thời gian với cùng một tầm mức, nhưng mục tiêu thật khác xa
nhau. Nhật Bản chỉ cần chấp nhận mở cửa một số hải cảng cho Mỹ và các nước Tây
phương vào buôn bán là việc bắn phá được chấm dứt. Đối với Trung Hoa cũng gần
như thế. Các cường quốc Âu Mỹ chỉ cần có một số khu vực trên đất Trung Hoa để tự
do làm ăn buôn bán là họ không tiếp tục đánh chiếm Trung Hoa nữa. Mọi việc sau
đó diễn ra như thế nào là tùy triều đình, giới thức giả và nhân dân Trung Hoa,
Nhật Bản tự quyết định.
Nếu trước khi Nhật Bản kịp canh tân,
mở cửa, và trước khi Trung Hoa kịp làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ, Mỹ
hoặc các nước Tây phương khác quyết tâm chiếm đóng hai nước này, thì chưa chắc Trung
Hoa và Nhật Bản đã giữ được độc lập và yên ổn để canh tân. Và số phận của cả
hai nước này chưa chắc đã khá hơn Việt Nam. Riêng Nhật Bản cũng đã thi hành
chính sách đóng cõi và tàn sát giáo dân Ki tô giáo quyết liệt và lâu dài không
kém, nếu không nói là triệt để hơn Việt Nam. Ở đây, phải chăng yếu tố địa lý
chính trị của Việt Nam, cửa ngõ giao thương hàng hải giữa Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương, có tính quyết định cho số phận của Việt Nam? Và nếu yêu tố địa lý
chính trị đáng được quan tâm thì phải chăng quan điểm về văn minh tiến bộ của
chính nhà cải cách hàng đầu Nhật Bản Fukuzawa, người được coi là cha đẻ của
nước Nhật canh tân, đáng để chúng ta suy ngẫm. Quan điểm đó là: “văn minh tùy thuộc thời gian và hoàn cảnh”.
Hoàn cảnh (đia lý chính trị của Việt Nam) và thời gian (chiếm Nam Kỳ chỉ 2 năm
sau khi bắn phá thị uy ở Đà Nẵng) hoàn toàn không thuận lợi cho Việt Nam để kịp
canh tân đất nước như Nhật Bản và ngay cả Trung Hoa.
Khi so sánh cách tiếp cận và đối phó
với Tây phương của ba nước Nhật Bản, Trung Hoa và Việt Nam, tôi muốn đưa ra một
cách nhìn khác với cách nhìn thông thường từ trước đến nay, cho rằng vua quan
và trí thức Việt Nam đã bảo thủ, không thức thời, không nhanh chóng mở cửa canh
tân. Và do đó, đã để mất nước. Tôi cho rằng chúng ta mất nước trước khi kịp
canh tân. Nhật Bản mở cửa canh tân khi Minh Trị Thiên Hoàng nắm quyền bính năm
1868. Lúc đó và ba thập niên sau đó nước Nhật hoàn toàn yên ổn để tiếp tục canh
tân, và không bị mất một tấc đất nào. Năm đó chúng ta đã mất 1/3 đất nước. Nếu
Nhật Bản có Fukuzawa, chúng ta cũng có Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú
Thứ….Ngay cả Cao Bá Quát, sau chuyến đi Tân Gia Ba về, trực tiếp thấy được
những tiến bộ của văn minh mới, đã không thể ngồi im, can gián không được, phải
làm loạn để bị chém đầu. Không khác gì trường hợp của Shôin ở Nhật, trước khi
Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi. Những con người Việt Nam yêu nước, hiểu biết và
muốn canh cải đất nước như thế không ít, nhưng dù họ có muốn, triều đình có
muốn, có còn kịp nữa không, và liệu người Pháp có chịu ngồi yên nhìn triều đình
và sĩ phu yêu nước Việt Nam canh tân đất nước hay không?
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có vị trí
địa lý, văn hóa và lịch sử đặc thù. Chúng ta không thể bỏ qua những nét đặc thù
này trong việc xét định tư tưởng và chính sách chính trị của mỗi quốc gia dân
tộc, cũng như trong việc lựa chọn tư tưởng và chính sách chính trị cho quốc gia
dân tộc mình./.
(28/3/2014)