Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014
Võ Phiến - Ðố kỵ cái Trừu Tượng(1)
![]() |
Hình: internet |
Đi tới cuối thế kỷ, phản ứng tự nhiên là ngoái đầu nhìn
loáng một cái về đầu thế kỷ. Đối với ai kia, có thể là bất giác nhìn chơi. Đối
với chúng ta — đám viết lách — cái nhìn ấy có ý nghĩa khác hơn một chút. Bởi vì
thời kỳ văn học hiện đại của Việt Nam, thời kỳ có mình trong đó, chính bắt đầu
từ đầu thế kỷ XX này.
Đem cái khả năng của một cá nhân lỗi lạc, Trương Vĩnh Ký gây
được mầm manh nha của nền văn học mới, rồi ông nằm xuống vào cuối thế kỷ trước
(năm 1898). Tiếp theo ông là những hoạt động qui mô rầm rộ của hai ông Nguyễn
Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, mỗi vị qui tụ một nhóm văn nhân học giả cừ khôi. Trong
vòng hăm lăm năm — một phần tư thế kỷ — họ làm xong nhiệm vụ của thế hệ tiền
phong trong giai đoạn giao thời. Thời ấy là thời nho học suy tàn tây học mới
nẩy. Mỗi nhóm Đông Dương và Nam Phong gồm đủ hai thành phần tân
cựu học. Kẻ tinh thông hán học gấp rút tổng kết nhằm bàn giao cái vốn liếng
tinh thần của tiền nhân để lại cho lớp sau đang thiếu hán ngữ; người giỏi Pháp
văn tới tấp dịch thuật, giới thiệu văn chương tư tưởng Âu Tây bấy giờ hãy còn
xa lạ đối với quốc dân. Công việc ấy gọi là “Truyền bá Đông Tây học thuật”.
Việc truyền bá cần một công cụ: vậy phải trau luyện Việt ngữ cho thành một
phương tiện xứng tầm.
Xem lại Việt ngữ, thấy lắm điều rắc rối. Thuở Trương Vĩnh Ký
là thuở phổ biến chữ quốc ngữ, tức thứ chữ dùng mẫu tự la-tinh mà phiên
âm tiếng Việt; sang thời Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh mới tiến lên trau dồi
cái “văn quốc ngữ” (theo cách nói của ông Phạm).
Việt ngữ có dùng được vào văn học không? Thuở ấy lắm kẻ phân
vân. Có ý kiến cho rằng: Việt ngữ kém lắm, so với văn Tàu văn Tây thì “trẻ lên
ba đã khôn sao bằng người đầu bạc”. Cánh hăm hở sốt ruột nhất đề nghị nên gác
tiếng Việt ra ngoài, trong phạm vi học thuật hãy lấy phăng cái tiếng Pháp ra
xài ngay cho tiện . Nguyễn Văn Vĩnh, trong bài tựa bản dịch truyện Gil Blas
de Santillane kể rằng thoạt đầu, thuở ông bắt tay vào việc, trong nước ta
chưa mấy ai tin nổi có thể dùng tiếng Việt để dịch tiểu thuyết Tây. Vậy mà ông
xắn tay xông vào, rốt cuộc làm nên sự nghiệp đồ sộ; Vũ Ngọc Phan cho rằng ông
là quán quân dịch thuật Pháp văn một thời.
Nhưng chính Nguyễn Văn Vĩnh, chính ông quán quân ấy, con
người mê say cực đoan từng xác quyết học quốc ngữ “là một sự bất đắc bất nhiên,
là việc sống chết của nước Nam ta”, chính người ấy cũng phải cho rằng tiếng
Việt có chỗ yếu lớn, khiến lắm lúc không thể đem nó ra xài được. Phải chờ trau
luyện nó đã. Trong khi chờ đợi, ông Nguyễn dùng tạm tiếng Tây! Một bài báo của
ông đăng trên tờ L’Annam Nouveau hồi 1935, nguyên cái nhan đề đã nêu rõ
lý do: “Le francais, langue de discussion”. Ông kể rằng một đồng nghiệp,
đến phỏng vấn về vấn đề trau luyện Việt ngữ, đã trách ông không chịu trao đổi ý
kiến bằng Việt ngữ mà lại chọn nói tiếng Pháp. Theo ông, trong khi tranh luận,
tiếng Việt thiếu tính cách trong sáng và chính xác. Trước đó năm năm, trong
cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh về vấn đề chế độ (lập hiến hay trực trị), hai ông
cũng đều dùng tiếng Pháp (riêng Phạm Quỳnh có đăng trên Nam Phong bản
Việt ngữ.)
Như thế, ông Nguyễn ông Phạm thuở ấy cùng gặp nhau ở một
nhận định về nhược điểm của Việt ngữ: không phải thứ tiếng để cãi cọ. Nhưng cái
ấy chưa hay ho bằng chuyện cả hai vị lại cùng gặp nhau nữa, ở nhận định về ưu
điểm của Việt ngữ: Hai vị nhất trí về thành công rực rỡ của Truyện Kiều,
tin tưởng ở Truyện Kiều, ca ngợi Truyện Kiều. Nguyễn Văn Vĩnh đem
Truyện Kiều dịch ra Pháp văn, Phạm Quỳnh tung hô Truyện Kiều quá
lời đến nỗi Ngô Đức Kế nổi dóa.
Một cái tiếng thoạt không mấy ai ngờ có thể dịch nổi truyện
Tây, vậy mà đem ra dịch thì dịch phăng phăng nào thơ nào truyện nào kịch, thứ
nào thứ nấy thiên hạ khen hay nức nở, kết quả sáng chói, đem viết truyện thì
từng viết nên truyện hay đến nỗi “thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn
chương nào cảm người được sâu xa và được rộng rãi như thế chưa?”, đến nỗi thành
ra “là một kỳ công có một trong cõi văn thế giới” (lời ông Phạm). Thế rồi cũng
một cái tiếng ấy mà đem ra cãi cọ với nhau tí chút lại không được, lại kẹt
cứng. Thế có mâu thuẫn không? có quái lạ không?
Chỗ ấy Nguyễn Văn Vĩnh đã trải qua, nhưng không thấy thắc
mắc gì. Phạm Quỳnh, ông có nghĩ ngợi về điều này. Theo ông, văn có hai thứ văn:
văn nghệ thuật và văn luận thuyết. Về văn nghệ thuật thì Việt Nam đã đạt tới
chỗ tuyệt vời; nhưng “về lối văn thuyết lý thì hầu như không từng thấy bao
giờ.”
Quả là trong các tác phẩm bằng chữ nôm được để lại, không hề
có thứ ấy. Nguyễn Văn Vĩnh dùng chữ “tranh luận”, ý có hẹp. Cái yếu của ta
không nhất thiết chỉ ở chuyện tranh luận; mà là cái yếu chung chung về biện
luận, thuyết lý, biện giải, thuyết minh, lý luận... Không cần chờ tranh cãi
nhau mới bày ra cái yếu; cứ diễn đạt cái suy tưởng là thấy yếu ngay.
Tại sao ta yếu món ấy? Phạm Quỳnh cũng có lời giải đáp: Vì
tiếng ta giàu về phần “hình nhi hạ”, mà nghèo về phần “hình nhi thượng”. Nói
thế nghe có lạ tai. Ông Phạm giải thích: Muốn dùng chữ triết học mà nói thì
tiếng Nam ta có tính cách cụ thể (concret) hơn là trừu tượng (abstrait).
Tiếng cụ thể diễn tả những cái do giác quan cảm nhận, tả trạng thái của sự vật
“thì hay vô cùng tưởng không tiếng nước nào bằng”. Vậy, tiếng ta vừa quán quân
(về văn nghệ thuật), vừa bất lực (về văn luận thuyết) là do ở chỗ quá thiên về
cái cụ thể.
Tính cụ thể thắng tính trừu tượng trong Việt ngữ, ông Phạm
phát biểu thẳng, không viện dẫn một tác giả nào, một bậc tiền bối nào. Ông là
người đầu tiên nhận ra chỗ ấy chăng? Nếu đầu tiên thì chỉ là đầu trong số các
văn nhân ta thôi, chứ người nước ngoài đã từng có kẻ thấy từ trước. Chẳng hạn
giáo sĩ F. X. Marette. Trong một tập Biên niên truyền giáo (Annales de la
propagation de la foi) in ở Paris năm 1833, ông này đã cho rằng “Việt ngữ
phong phú về tiếng để diễn tả những cái thông thường và có thể cảm nhận được,
nhưng nghèo về loại tiếng dùng vào các kỹ thuật cơ khí và các ngành mỹ thuật;
Việt ngữ tuyệt đối không có tiếng để diễn đạt các ý tưởng trừu tượng.”2
Kể ra người ngoài có sáng hơn ta cũng không nên lấy làm lạ.
Ta quen thuộc tiếng ta từ bé, ta không để ý; còn như kẻ đến từ xa, từ một
truyền thống văn hóa khác hẳn, kẻ quen vận dụng tiếng nói vào vô vàn vấn đề
trừu tượng, lại đang rao giảng tôn giáo, hàng ngày chuyên nói những chuyện tâm
linh mờ mịt, chợt đụng đầu vào thứ tiếng “tuyệt đối” không có một từ trừu tượng
nào, kẻ nọ phải sững sờ chứ. (Tuyệt đối ? ông giáo sĩ nọ có quá đáng
không? Dù sao, con người có xác có hồn. Chữ xác là tiếng thuần Việt, chỉ
thị một khối cụ thể; đến chữ hồn ông giáo sĩ gặp khốn khổ ngay. Hồn là
tiếng Tàu. Ta không có tiếng gọi tên cái hồn, ta không mảy may để ý đến, không
lúc nào thấy cần phải nói đến cái món trừu tượng ấy. Sao mà dân tộc ta đố kỵ
trừu tượng đến thế!)
Kẻ sững sờ đã nêu ra sự lạ trước Phạm Quỳnh trăm năm; nhưng
chỉ có thế rồi thôi. Phạm Quỳnh không thôi. Từ cái trừu tượng, ông liên hệ sang
khả năng biện luận của dân tộc. Thấy ta kém biện luận, ông bắt tay vào việc
chữa cái nhược điểm của tiếng Việt. Ông hô hào “đoàn luyện quốc văn”, “bồi bổ
quốc văn”. Bồi bổ vào cho nó thật nhiều tiếng trừu tượng, biến nó thành một
phương tiện tốt, đắc lực, thích hợp hơn cho loại văn luận thuyết.
Trong vòng mười năm đầu của Nam Phong, ông Phạm tính
ra đã “phát hành kể có hàng ngàn tiếng mới”, ông đã dùng chúng vào các việc
biên tập, dịch thuật, việc truyền bá Đông Tây học thuật.3
Phạm Quỳnh bắt được mối liên quan giữa loại văn biện luận và
từ ngữ trừu tượng, nhưng khi bàn về vấn đề quốc học không thấy ông đề cập đến
mối liên quan này.
Ta chưa từng có quốc học, Phạm Quỳnh và Phan Khôi hồi đó
(1931) đều bảo thế. Ông Phan tìm hiểu kỹ càng thành tích trước tác của tiền
nhân, cố xem có gì đáng gọi là quốc học chăng, ông kết thúc: “Tìm mãi không ra
cho tới ngày nay tôi mới trịnh trọng và quả quyết mà nói rằng không có.” Ông
Phạm tán đồng: “Nước Nam ta mấy mươi thế kỷ theo học nước Tàu chỉ mới là người
học trò khá, chưa hề thấy dám thoát cửa thầy mà lập nên môn hộ riêng, không
những thế lại cũng không lọt ra ngoài vòng giáo khoa mà bước lên tới cõi học
thuật nữa. Như vậy thì làm sao có học thuật được?”
Quốc học, hai vị đều hiểu là “gồm những phong trào về tư
tưởng về học thuật trong một nước”. Vậy văn học thì ta có, quốc học thì không;
nghệ thuật thì có, học thuật thì không.
Tại sao vậy? Phan Khôi, ta không thấy ông thắc mắc về điều
này. Phạm Quỳnh vẫn kỹ càng, chu tất. Ông giải thích: đó là vì hoàn cảnh. Có
hoàn cảnh địa lý, có hoàn cảnh lịch sử, có hoàn cảnh chính trị, thảy đều bất
lợi cho sự phát triển của học thuật, tư tưởng, ở ta.
Tôi thầm chờ đợi thêm một lý do không được ông đưa ra: lý do
bẩm chất. Chẳng hạn: Trời sinh ra dân ta vốn không thoải mái đối với những gì
là tư tưởng, là lý luận, những gì trừu trượng. Bẩm chất ấy đã bộc hiện ra ở cái
tiếng ta nói, làm gì nó lại chẳng bộc hiện ở những điều ta viết? Ông Phạm đã
nhận ra rằng ta không giỏi biện luận vì tiếng ta nghèo trừu tượng, sao ông
không nhận luôn rằng ta thiếu học thuật cũng có phần vì lẽ ấy? Có gì khiến ông
ngại ngùng chăng?
Nói “trời sinh”, chẳng qua là buột miệng nói cách dễ dãi,
nói theo cái ngôn ngữ thông dụng hàng ngày. Bẩm chất với hoàn cảnh xét ra cũng
không trái nhau, còn có thể có liên hệ. Muôn loài sinh ra có giống giỏi bay, có
giống chuyên lội, có loài mọc sừng, có loài dài cổ, có giống thở bằng phổi, có
giống thở bằng mang v.v...: xét hiện tại thì là trời sinh ra thế, là bẩm sinh
cả. Nhưng truy ngược tới tận nguồn thì có thể là do hoàn cảnh, dám lắm. Thuở
ban sơ đâu có bao nhiêu loài. Từ một số ít, sinh vật phát triển ra nhiều. Tùy
hoàn cảnh sinh sống khác nhau mà trong quá trình tiến hóa mỗi loài biến ra một
vẻ, rồi truyền tử lưu tôn muôn vạn kiếp, hóa ra đặc tính bẩm sinh. Nói gần thì
lươn ngắn chạch dài, thờn bơn méo miệng với trai lệch mồm là bẩm sinh; nhưng
nói xa thì có thể qui cho những hoàn cảnh khác nhau. Xu hướng đố kỵ cái trừu
tượng ở ta có lẽ không bỗng dưng mà có. Xem gần nó như tuồng một xu hướng bẩm
sinh; nhưng nghĩ xa, không chừng nó đã phát sinh do một “hoàn cảnh” nào đó,
trong thời đại hồng hoang. Thời nào? bao xa? Ai mà biết! Rồi đây hoàn cảnh đổi
khác, xu hướng tinh thần nọ sẽ mất đi chăng? bao giờ mất? Ai mà biết được!
Họa chăng người ta chỉ đoán rằng hoàn cảnh phát sinh phải xa
lắm, từ trước khi ta có tiếng nói. Bởi vì khó thể tưởng tượng nổi xưa kia ta
vốn sử dụng thứ ngôn ngữ có nhiều từ trừu tượng; rồi dần dà loại từ ấy rụng
dần, biến mất dần, rốt cuộc “tuyệt đối” không còn tiếng nào nữa. Ông Phạm nói
đến hoàn cảnh, ông không có ý nói xa đến thế. Ông chỉ muốn chỉ thị cái hoàn
cảnh ta sống gần khối dân Tàu lớn, đông và mạnh, cái hoàn cảnh khiến ta phải lo
việc tự tồn đến nỗi quên việc suy tư. Hoàn cảnh ông nói đó là gần đây, mới vài
ngàn năm, e không đến nỗi xóa tiếng của ta. Trái lại, sự tiếp xúc với nguời Tàu
chính đã làm giàu thêm tiếng ta, nhất là tiếng trừu tượng. Trong bộ Việt Nam
tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức có 13,276 chữ, trong đó 3,443 vốn gốc
tiếng Tàu; chắc chúng nó đã bắt đầu chạy vào tiếng Việt từ thuở Bắc thuộc ấy.
Ta du nhập tiếng trừu tượng tích cực như vậy hết nghìn năm
này đến nghìn năm khác, mà mãi vẫn chưa từng dựng nên quốc học, mà thành tích
học thuật chưa có gì cả, khiến cho đầu thế kỷ này kẻ sĩ có ý thức phải ráo riết
“truyền bá Đông Tây học thuật”.
Cùng lúc ấy, thế hệ Phạm Quỳnh – Nguyễn Văn Vĩnh lại khẩn
trương bồi bổ, và các thế hệ tiếp cũng lại tiếp tục bồi bổ quốc văn, du nhập
thêm nghìn nọ nghìn kia tiếng trừu tượng mới nữa. Thế bây giờ — cuối thế kỷ —
chúng ta đang đến đâu, về mặt học thuật? Chúng ta đã có chủ thuyết triết học
riêng, có chủ thuyết kinh tế mới mẻ, đã mở ra những trường phái chính trị đặc
biệt sáng giá chăng? Các bậc trí thức, học giả, của chúng ta đang hối hả
“truyền bá học thuật Việt ra khắp Đông Tây” gấp gấp chăng?
Chuyện ấy chưa hề xảy ra. Chỉ thấy hoạt động ráo riết ở ta
vẫn là truyền bá Đông Tây tư tưởng. Vẫn là truyền vào, chưa phải truyền ra.
Cuối thế kỷ cái truyền vào cũng ráo riết không kém hồi đầu thế kỷ.
Chừng ấy cứu chữa chưa đạt kết quả; có lẽ lúc này chúng ta
nên góp thêm một vài suy ngẫm.
Chẳng hạn về mối liên hệ giữa tiếng trừu tượng với khả năng
biện luận suy tưởng. Đó là loại liên hệ thế nào? Bảo rằng vì thiếu tiếng trừu
tượng mà kém về biện luận, hay bảo rằng vì ít suy luận nên không cần đến, không
đặt ra tiếng trừu tượng, do đó loại tiếng này hóa nghèo. Như thế là cho rằng
hai bên có liên hệ nhân quả: cái này sinh ra cái kia, hoặc ngược lại. Liên hệ
như cha với con. Sửa cái nhân thì cái quả sẽ đổi khác.
Mặt khác, lại có thể hiểu: thiếu tiếng trừu tượng và kém về
suy luận là hai hiện tượng cùng biểu lộ một xu hướng tinh thần. Tiếng nói là
phương tiện diễn đạt ý tình; phương tiện tốt thì diễn đạt tốt. Nhưng mặt khác
tiếng nói tự nó cũng là biểu hiện của một xu hướng tinh thần của dân tộc, cũng
là phản ảnh của một sở trường bẩm sinh tiềm ẩn, tự bản thân nó cũng ẩn ngụ
những ý tình thầm kín của dân tộc, không sao? Là phương tiện, nó không phải thứ
phương tiện như cây cuốc, lưỡi cày, như cái búa, lưỡi dao v.v... Hai sự kiện
cùng phát sinh từ một xu hướng gốc, chứ không phải sự kiện này sinh ra sự kiện
kia. Giữa đôi bên không phải là thứ liên hệ cha với con, mà là thứ liên hệ anh
em song sinh. Cả hai cùng cội rễ, phát sinh từ một hoàn cảnh xa xôi. Hai sự
kiện là hai chứng minh bổ túc cho nhau.
Về mối tương quan giữa hai hiện tượng này, dân tộc Ấn đã tự
hiến làm một dẫn chứng lý thú. Ấn ngữ cực nhiều tiếng trừu tượng và người Ấn
cực giỏi tài biện luận. Ai cũng biết các dân tộc La-mã, Hi-lạp và Đức là những
dân tộc cừ khôi từng cung cấp cho nhân loại những nhà triết học lừng lẫy;
Keyserling, một triết gia Đức, bảo rằng số từ ngữ triết trong tiếng sanscrit
của Ấn-độ nhiều hơn tổng số từ ngữ triết của ba thứ tiếng La-tinh, Hi-lạp và
Đức cộng chung lại. Còn người Ấn thì nhất khoái tranh luận. Trong khi ở các xứ
khác lắm người ham thích xem đá cá, đá gà, xem chọi trâu, xem cọp voi đấu nhau,
xem cả người với người đánh đấm nhau, đấu gươm đấu kiếm tranh giết nhau, thì ở
Ấn từ vua quan đến dân chúng đều khoái xem đấu võ mồm. Hễ có cuộc tranh biện giữa
các vị cao tăng thì người đông nghìn nghịt chen nhau nghe. Kẻ thắng có thể được
nhà vua trọng thưởng đến cả nghìn con bò cùng với vàng bạc, được dân chúng đón
rước cực kỳ trọng thể. (Đường Tam Tạng từ Trung Quốc sang Ấn-độ cũng tham dự
những cuộc biện đấu lớn như thế.)
Hiểu theo cái ý hai hiện tượng nọ có tương quan song sinh
thì việc du nhập, tăng bổ từ trừu tượng vào Việt ngữ sẽ không có hiệu lực phát
triển tức thì khả năng suy tưởng, xây dựng nhanh chóng nền quốc học. Tăng bổ từ
mới là cung cấp thêm phương tiện, trong khi cái thiếu không phải chỉ là phương
tiện. Dù sao, có thêm vốn từ trừu tượng cũng làm chúng ta quen thêm, gần thêm
các hoạt động nghiên cứu, suy tưởng. “Hoàn cảnh” sinh hoạt học thuật ấy, dần
dần cải biến khuynh hướng “bẩm sinh” đố kỵ trừu tượng của ta. Và một ngày kia,
ta sẽ vùng lên. Biết đâu?
Nói thế là nói điều quá xa xôi. Có phải Phạm Quỳnh đã ngại
ngùng, và ngại ngùng chính vì chỗ xa xôi ấy? Giữa lúc thế hệ tiền phong đang
tưng bừng, hồ hởi, sao nỡ gieo điều ngờ vực, nêu trở lực khó khắc phục?
Thực ra, không cứ là thế hệ tiền phong, thế hệ nào cũng ghét
trở lực. Quốc học đã muộn mất bốn nghìn năm văn hiến, đến lúc này mà không dựng
gấp sao được? Lên đỉnh cao trí tuệ phải vọt lên cấp kỳ. Chần chờ, sốt ruột lắm.
Một chút so sánh với người thiên hạ càng làm cho ta sốt ruột
thêm. Ở Pháp cũng từng có thời lệ thuộc vào tiếng La-tinh (như ta xưa kia lệ
thuộc vào chữ Tàu), rồi cũng từng nổi lên chủ trương thoát ly khỏi tiếng
La-tinh mà xây dựng nền văn chương học thuật Pháp, vào thế kỷ XV. Không đầy một
trăm năm, đã có những thành công cả về hai thứ văn nghệ thuật và văn luận
thuyết. Bên này có Du Bellay, Ronsard, thì bên kia cũng có những Calvin
(1509-1564), Montaigne (1532- 1592). Chẳng bao lâu xuất hiện Descartes (1596-
1650), Pascal (1623-1662).
Điều ấy có liên quan chăng đến bản chất của ngôn ngữ Pháp?
Nói về cái phương tiện diễn đạt tư tưởng của tiếng Pháp, Montaigne — một vị
trong thế hệ tiền phong — bảo: “Tôi thấy ngôn ngữ của chúng ta đã đủ phong
phú.” (suffisamment abondant). Có phải bản chất ngôn ngữ ấy là một thuận
lợi cho sự phát triển học thuật của Pháp? Còn ở ta... thật là sốt ruột.
Dù sao, nên tìm một lý lẽ để hạ hỏa, trong khi chờ đợi một
nền quốc học rực rỡ.
Bấy lâu ta kém sút, không kém sút cả. Chỉ kém một bên thôi.
Thiếu kém bên ấy, quốc gia vẫn bền vững, dân tộc vẫn tồn tại và phát triển, vẫn
sống mạnh sống hùng, thắng sự xâm lăng của nhiều nước lớn và mạnh, thắng và
nuốt tươi đôi ba nước nhỏ hay yếu, dân tộc vẫn hưởng một nếp sống có lễ nghĩa,
có thuần phong mỹ tục, có nét văn hóa riêng v. v... Ước mong, đòi hỏi phải hơn
thế: vâng, thì cứ ước cứ đòi. Nhưng cũng nên biết rằng khắp thế giới xưa nay,
cái số các dân tộc xây dựng được những hệ thống triết lý nguy nga có bao nhiêu
đâu. Từ những trung tâm lớn như Trung Hoa, Ấn-độ, Hy-lạp... ánh sáng tư tưởng
tỏa dần ra, rồi nhân loại được hưởng cả, lo gì. Vả lại, các công trình tư tưởng
lớn lao rồi về sau không hề ngăn cản nổi sự suy sụp thảm hại ở một số quốc gia
thuộc những khu vực văn minh lừng lẫy một thời. Vậy quốc học, có lẽ ta cũng
không nên kỳ vọng quá đáng vào nó.
Người có hai phía: phía cảm thụ, phía suy tư; văn có hai
thứ: thứ nghệ thuật, thứ luận thuyết. Ta xuất sắc về một phía thứ nhất. Không
chừng đó lại là phía hay ho đa. Có được các giác quan mẫn nhuệ, có cảm xúc tinh
vi, ta tha hồ hưởng thụ, sống một đời phong phú, đậm đà. Phía thứ nhất mà kém,
không thể trông cậy vào ai được; ta không thể mượn chiếc lưỡi tinh tế của kẻ
khác để thưởng thức chén trà ngon, tô phở ngon, ta không thể nghe nhạc hay bằng
đôi tai sành sõi của kẻ khác, không thể xem tranh ngoạn cảnh bằng mắt kẻ khác,
yêu đương rào rạt bằng con tim kẻ khác. Một dân tộc có thiên khiếu về cái cụ
thể, một dân tộc sở hữu những giác quan tinh nhạy không phải là được Trời cưng
sao?
Còn suy tưởng cao xa? Hãy giả vờ nêu thử một câu hỏi liều
lĩnh: món ấy có thật là cần kíp không? Cao xa như lời Chúa, lời Phật, như bao
nhiêu lời các đức Khổng Tử, Mạnh Tử, Aristote, Socrate v.v... trước sau đều lần
lượt tìm đến tai ta. Người Tàu người Tây nghe được mấy lời, ta cũng được phép
nghe đủ mấy lời. Không một triết gia nào, không thánh hiền nào giấu giếm lời
hay ý đẹp cả. Trái lại, mọi sản phẩm cao siêu nhất, quí báu nhất đều mong được
truyền bá rộng rãi. Chỉ lo ta không cố gắng tiếp nhận, đừng ngại người không
quảng bá. Rồi phát minh điện tử, bí mật vũ trụ, thiên hạ khám phá ra đến đâu,
ta tha hồ biết theo đến đấy.
Thành quả của trí tuệ, ta hưởng chung với người; cảm nhận
các giác quan thì của ai nấy hưởng kỹ.
Vậy lớp tiền phong đầu thế kỷ chủ trương truyền bá Đông Tây học
thuật là chí phải. Rồi khi nhận thấy lớp tiền phong cuối thế kỷ vẫn mải miết
tiếp tục truyền bá Tây phương học thuật cũng không đến nỗi phải lo lắng hoảng
hốt.
4 - 1999
1 Bài này đọc trong Ngày Phạm Quỳnh, tổ chức tại báo quán Người Việt (ở California, Hoa Kỳ), tháng 5 – 1999.
2 La langue annamite abonde en expressions pour les choses
usuelles et sensibles, mais elle est pauvre pour ce qui regarde les procédés
des arts mécaniques et les beaux arts; elle est absolument dépourvue
d’expressions pour les idées abstraites.
3 Nam Phong số 119, kỷ niệm đệ thập chu niên.