Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014
Từ Khanh - Sương bụi tro tàn Mrauk U
![]() |
Hình: Internet |
Sương ở Mrauk U dầy nhưng không thành mây. Cũng không phải
mây sà thấp để hóa màn sương trắng. Sương ở miền cực tây sơn cùng thủy tận của
đất Miến vẫn là sương. Khi nắng lên, sương tan vào đâu. Trời vẫn xanh.
Có những nơi mây xuống thấp thành
sương trắng lung lay, như Dharamsala. Nơi đó mây từ rặng Hy Mã đổ về, gió nóng
từ miền nam thốc lên nhào mây như nhào bột. Mây bị vây hãm trong bốn bề núi
cao, dùng dằng trong thung lũng rồi lẩn quanh vào trời mây. Mây ở Pa-an như sợi
chỉ, trời thòng xuống đậu trên ngọn cây trong thửa vườn bồ đề bát ngát.
Trời ở Mrauk U không mây. Sương và
trời không mắc mớ gì nhau. Mặt trời nơi đây lên muộn. Bảy giờ sương vẫn sà thấp
như chiếc võng. Chiếc võng trắng phau nằm thẳng băng móc một đầu lên ngôi chùa
Htuk Kant Thein 443 năm tuổi hình cái chuông úp lên nền đất vuông. Cả ngôi chùa
đen sững, đen bóng, không duyên dáng như những ngôi tháp ở Bagan. Cả khối đen nặng
nề lầm lũi nổi lên trong màn sương trắng. Khối đen không lạnh lùng, không làm dáng,
không những đường nét hoa văn. Như một người kiên quyết chấp nhận định mệnh, khối
đen bất chấp ngoại cảnh trắng tinh đang chờn vờn vồ vập xung quanh. Cách vài chục
thước là ngôi chùa Sitthaung 80.000 tượng Phật gần 500 năm tuổi. Cũng một khối
đen khổng lồ với những ô vuông xung quanh như pháo đài. Cách hai mươi thước là
Andaw Thein 416 tuổi, nơi thờ xá lợi Phật. Cả ba ngôi chùa đều đen. Xung quanh
có ô vuông nhỏ lấy ánh sáng soi mờ các tôn tượng thiết trí dọc theo bốn dãy
hành lang bên trong. Đứng ngoài nhìn vào không khác gì những lổ châu mai.
Khi nắng lên, sương như bị hút vào
các lỗ châu mai. Trời trong vắt không mây. Những khối đen, không lầm lì cũng
không ung dung, nổi trên màu đất đỏ. Nhưng sương trời đi biệt chứ khói bếp nhà
ai vẫn ngùn ngụt cuộn lên trời. Mùi than củi lấn hết bầu khí ban mai, nếu không
nghe ra mùi khét cứ tưởng sương sớm còn lẩn vẩn. Sương trời như tấm phông rút
biệt để bày ra bộ mặt trần gian nơi vùng đất cây cỏ te tua.
Những phụ nữ từ con đường đất bụi,
đội ống nhôm đi lấy nước, chen ra linh động trên nền đất, in hình lên những bức
tường đen im lìm. Rồi những phụ nữ đội những bó củi mót trong rừng, lầm lũi đi
trên đường mòn ra chợ. Nơi vùng đất xa ngắt này, hai thứ quý giá nhất là nước
và củi.
Những chấm người nhỏ bé di động
không tạo được sự sống nhưng ít ra, khiến ta nghĩ nên đây còn có người. Cuộc sống
nhọc nhằn quá. Những bếp than bếp củi, những ống nhôm đựng nước, những bó củi gầy
guộc, tất cả đội trên đầu những phụ nữ bé nhỏ, kéo dép lê trên những con đường
đất nhỏ. Những ngôi chùa lầm lầm im lặng. Những con người lầm lũi bước.
Mrauk U, ngày đầu đã cho tôi cái cảm
tưởng là một nơi không phiền não không hạnh phúc, không khóc không cười. Một
chút hoang sơ buồn thiu, gần gần với man dại nơi những đôi môi rộng ngoắc lên ở
hai đầu mép. Đôi mắt người to đen thản nhiên nhưng không lạnh lùng. Tôi – những
ngôi chùa đá đen – không than trách không cảm thán gì thời gian, cứ như chuyện
thế gian chuyện trời chuyện đất cuộc sống là như thế.
Sau một tuần
trốn chỗ sơn cùng, tôi tưởng sẽ rời Mrauk U suông sẻ. Nhưng không, chiếc tàu hướng
về nam mắc cạn trong sáng sớm. Sương dầy quá nên thuyền trưởng không thấy đường,
chạy thẳng lên bờ. Đứng ngắm sương khói lảng vảng trên mặt nước, nhớ hai câu
thơ của Thôi Hiệu qua bản dịch tài hoa của Tản Đà. ‘Quê hương khuất bóng hoàng
hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.’
*
Arakan hay Rakhine, vùng đất cực tây của Miến Điện dọc theo
vịnh Bengal. Có vẻ như chỗ đó còn nhiều dấu vết của thần thoại Ấn Độ, những người
Arakan dữ dằn bốn ngàn năm trước. Rồi máu lửa trong hai năm 2012 và 2013 vì
xung đột chủng tộc. Ba lần xin giấy vào không được. Lần thứ tư, tôi đến được thủ
phủ của Rakhine là thành phố Sittwe. Mùng 4 tết Giáp Ngọ. 2014.
Dự tính đi
khắp Miến Điện sau gần năm năm mới gọi là thành.
Sittwe nhỏ
và buồn. Bờ biển Bengal buổi chiều hiu quạnh, bờ cát đen than chạy vài trăm thước
mới tới mép nước. Vài chiếc xe đạp thồ chạy bâng quơ. Tôi ngồi trên thềm biển,
cũng trở đầu ngó bâng quơ.
Sittwe
không có gì để ở lại lâu. Hôm sau bắt tàu chợ ngược sông Kalenda lên Mrauk U.
Chiếc tàu cũ kỹ như những chiếc tàu chợ khác khắp Miến Điện, cũng người đội
thúng bán bưng nằm ngồi la liệt trên sàn. Tìm một chỗ ngồi khuất gió, ngắm hàng
trăm con hải âu trắng soải cánh bay tà tà quanh tàu cả tiếng đồng hồ từ khi tàu
tách bến.
Mrauk U như
vùng đất thần thoại, chỉ cách Sittwe hơn năm giờ tàu thủy. Nơi đây có ngôi chùa
80.000 tượng Phật. Có ngôi chùa 90.000 tượng Phật. Và điểm hành hương nổi tiếng
nhất là chùa Mahamuni, nơi Đức Phật dừng chân và người dân Arakan xin tạc tượng
ngài bằng vóc dáng người thật.
Tôi đến
Mrauk U như người đi trong chiêm bao đến vùng đất thần thoại không ngập tràn
ánh sáng mà bao phủ trong màn sương cổ tích. Dòng sông yên ả, không dữ dội tuôn
tràn như Irrawaddy mùa nước lớn. Hai bờ thinh lặng, những con cò trắng lẻ loi
ngó quanh quất. Cả một sông cảnh yên bình.
Thành phố,
hay vùng đất mà chính quyền Miến chắc cũng muốn quên, từng là kinh đô của hai
vương triều phồn thịnh, giờ chìm trong bụi mờ. Một chiếc xe đạp đi qua cũng cuộn
lên những lốc tròn ngột ngạt. Những ngôi nhà chìm trong bụi. Tấm trải giường
trong nhà khách rẻ tiền phớt lớp bụi mờ. Mọi con đường đều cong và lồi đá. Một
vùng đất đang tàn lụi trong cô liêu nằm sát biên giới Bangladesh. Nơi vua
Mahataing Chandra thành lập vương quốc Vesali năm 327. Cả hoàng thành giờ chỉ
còn một dãy gạch thấp hơn bờ ruộng. Nhưng cũng tại phía bắc của vương thành này
hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Phật Thích Ca đã dừng chân trên núi Thalagerg.
Pho tượng Thích Ca bằng vàng lừng danh ở Mandalay được tạc vào thời Đức Phật tại
ngôi làng Shinkyawmunei cách núi Thalagerg chừng hai mươi cây số. Đến thế kỷ 18
tượng bị một ông vua cướp mang về Mandalay. Người Arakan cam chịu thua cuộc, tạc
một tôn tượng khác nhỏ hơn để tôn trí nơi Đức Phật dừng chân. Ngôi chùa này chỉ
cách Mrauk U 50 cây số nhưng không đông đúc như chùa Mahamuni ở Mandalay.
Tôi bắt bọn
để mướn xe jeep và đi đò lên Chin, tiểu bang thứ 14, điểm cuối cùng cho trọn lộ
trình Miến Điện toàn tập. Một ông giáo sồn sồn người Thụy Sĩ dạy tiếng Pháp và
Đức nhưng rất ghét người Đức. Miến Điện là nước thứ 85 ông ta đến nhưng càng đi
càng thấy ‘người Đức khó chịu, khinh người, rặt đầu óc phát-xít.’ Một ông già
người Úc làm quản lý một nhà hàng lâu đời nhất Sydney. Ông già cực kỳ vui tính,
nhà khách không có nước lạnh giữa trời 15 độ C thì ‘ba ngày tắm một lần cũng
không chết.’ Một chàng tuổi trẻ người Ba Lan mới xong đại học, làm hướng dẫn
viên du lịch cho người Ba Lan qua Trung Quốc nhờ chàng biết tiếng Tàu. ‘Người
Tàu chỉ giỏi sao chép, coi chữ viết của họ cũng biết vì sao, cứ copy cho đúng
hình thù sự vật rồi làm chữ viết, chùa thì cái nào cũng mái cong cong có rồng
chầu. Tại cái chữ viết của họ khiến người Tàu sáng tạo không nổi.’ Ý kiến ngồ
ngộ của chàng Ba Lan khiến con đường dồng sốc lên bang Chin ngắn bớt. Rồi bỏ
xe, mướn đò đi ngược sông Lay Mro như dài bất tận.
Chúng tôi đến
mấy ngôi làng người Chin, căn nhà sàn nào cũng te tua mái lá vách tre. Họ trồng
một ít đậu phộng, dưa hấu, vài cây xoài và me tơi tả trong bụi. Ghé hai ngôi trường
tiểu học phát kẹo và bong bóng. Nơi đây phụ nữ lớn tuổi còn xăm mặt. Một bà cụ
73 tuổi bị một cái cây chọc vào mắt muốn lòi tròng, gặp “đám Tây” cụ xin thuốc
nhỏ mắt nhưng không ai đem theo. Chúng tôi đi là rà mấy hàng quán trong làng, đến
cái “siêu thị” thứ ba thì tìm được một chai thuốc nhỏ mắt Miến Điện to gần bằng
chai bia lùn. Ông giáo Thụy Sĩ, từng làm cho Chữ Thập Đỏ Quốc tế ở châu Phi bốn
năm, nói: ‘Cũng chịu thôi.’ ‘Ừ, người Việt gọi là phước chủ may thầy.’
Người ở
Mrauk U làm thuê làm mướn (nhưng tuyệt không đào tường khoét vách) đủ đường để
sống. Người Chin sống cạnh sông. Sinh kế của họ là nuôi heo mọi, lặn xuống lòng
sông lượm đá và vào rừng chặt tre để đổi lấy gạo tiền với người Mrauk U văn
minh. Bang Chin, giáp cả Bangadesh và Ấn Độ, lọt thỏm giữa núi rừng. Những ngôi
làng chỉ nghe tiếng lá, và từng bầy con nít lấm lem chạy tung bụi mờ.
Nơi đây là
vùng đất để thủ. Thế đất dựa vào núi, những ngọn đồi thấp, như con thú rừng ngồi
xổm trông ra vịnh Bangal. Những người Rohinya vô thừa nhận sống lẩn lút trong rừng
gần biên giới Bangladesh. Cả những ngôi chùa cũng xây theo kiến trúc phòng thủ,
tường đá dầy kiên cố đủ sức chịu đựng súng thần công. Cung điện ngày xưa giờ
toàn gạch vụn. Nhưng trong một mảnh đất nhỏ của di tích kinh thành Vesali còn
sót lại, có ba cây sứ già, thật già, gốc to vài thước, những chiếc cành toe ra
như những lọn tóc thắt bím không có một lá cây nào. Cả ba thân cây đều khô khốc,
trắng bệch và rúm ró tưởng chừng không còn chút sự sống. Nhưng trên những đọt
cao lại ẩn hiện vài bông sứ trắng nhỏ bằng bông cau.
Có vẻ như
người Arakan ở Mrauk U, những ngôi chùa ở Mrauk U, những con đường bụi ở Mrauk
U, và những thân hình bé nhỏ đội nước đi giữa trời Mrauk U chưa hoàn toàn khánh
kiệt, như những bông sứ trắng trổ từ thân cây già.
Vẫn ra hoa cho tròn phận sự.
Dù đã mỏi mệt
lắm rồi.
Tôi không
hiểu sao mình lại đến chốn này. Mấy năm liền tưởng nhớ một vùng đất trong tâm
tưởng. Đi coi lại cái đã mất chứ không tìm lại dĩ vãng (làm chi). Cứ như nhìn một
ngôi sao lớn trên bầu trời gần sáng, một vầng trăng khuyết thượng tuần tháng
Giêng, những ngọn đồi khô lấm bụi vàng, rồi khí trời đất đá thở ra, tất cả trộn
vào nhau, nhào nặn từ càn khôn hàng thiên niên kỷ trước, khi tôi đến, chạm vào
thì tất cả vỡ tan thành tro bụi. Những hạt bụi ấy mang biết bao dòng sinh mệnh
buồn vui, trở về không.
Trên sườn
núi Thalagerg vắng tanh, tôi ngồi ngắm màu vàng sẫm của hoàng hôn phủ xuống những
ruộng đồng khô khốc gốc rạ. Đã đến nơi sơn cùng thủy tận. Đã khắp cùng đất nước
hình ngọn lửa. Thả nhẹ lần cuối chút tro than của mẹ nơi Đức Phật dừng chân
ngày nào. Bụi đã trở về với đất. Mùa xuân không còn nữa.