Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013
TRẦN DOÃN NHO - VỀ
TRẦN DOÃN NHO -
Cứ mỗi lần gần đến Tết, thì tôi lại nghĩ đến chuyện về.
Về, tức là trở lại. Trái nghĩa với đi. Khi nói về, ta phải
hiểu là ta đã đi, đã lìa xa một nơi chốn thân yêu nào đó. Khi nói về là nói đến
một hạnh phúc, một thú vui, một ước ao. Về, do thế, trở thành một sức lôi kéo
mạnh mẽ, đôi khi không cưỡng lại được. Đi, có thể là bất đắc dĩ. Mà về, thường
thì không. Chữ về bao giờ cũng gợi nên một cảm giác thân thiết, một cái gì ấm
cúng: mạ đi chợ về, tha về (trả tự do), trở về, xuân về, hè về, về làng, về
nước, về nhà, về quê. Ít ra là về mặt chữ nghĩa.
Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê đến
bên lũy tre
Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè, chào đón người về (Ngày trở về/ Phạm Duy)
Để
mô tả ngày trở về của một người thương binh, Phạm Duy đã sử dụng âm
"ề" ở cuối câu, dựa vào chữ về, khiến cho bản nhạc hát lên nghe êm
đềm, nao nức. Khung cảnh của một làng quê với lũy tre, với đường đê với vườn
rau thân thuộc trong nắng, tất cả hiện ra y như thể để chào đón một người. Cảnh
đoàn tụ thật vô cùng cảm động:
Mẹ lần mò, ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong
giấc mơ
Tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ.
Người lính đã trở về và sung sướng tìm thấy lại những gì thân
yêu nhất trong đời mình và an nhiên thụ hưởng cảnh sống êm đềm xưa cũ. Về ở đây
là hội ngộ, gặp gỡ, là hàn gắn những vết thương gây ra do hậu quả của thời gian
và chia cách.
Cũng là trở về, nhưng cách về của một người tù cải tạo sau
1975 hoàn toàn khác hẳn:
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay. (Ta về/Tô Thùy Yên)
Cái về này thật lạ. Không lũy tre, không có nắng vườn rau,
chẳng có bà mẹ nào lần mò ra trước ao để đón. Về mà như đi. Một cái về lạnh
lùng, tức tưởi. Về, đơn thuần chỉ là một chuyển động vật lý: trở lại ngôi nhà
của mình. Mặc dù khác với anh thương binh, người tù được trả về chốn cũ với
thân thể nguyên vẹn, không phải bước lê vì bị thương, nhưng lòng hoang mang
thất tán. Mọi thứ hoàn toàn khác xưa:
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương khó quá, sống thờ ơ
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa... (Ta về)
Thôi thì vậy cũng được. Cũng bình thường. Nhưng cái này mới
kinh khiếp:
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian, kiếm chính mình.
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh (Ta về)
Một trở về mất mát. Một trở về tuyệt vọng. Về, không còn mang
ý nghĩa uyên nguyên của nó. Nó giống và khác với cái về của một nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyễn Mộng Giác.
"Thấy khuôn mặt
chàng không có gì khác thường, nàng tiếp:
- Em van anh,
cho em được đến đây thăm con. Cho em...
Chàng
ngắt lời nàng:
- Chỉ sợ
đến lúc nó không chịu gặp cô nữa thôi!
Nàng lịm
người vì sợ hãi bất chợt. Lần đầu tiên nàng nghĩ đến cảnh huống đau xót ấy.
Tưởng nàng không tin vì quá tự tín, chàng nói dỗi:
- Vả lại,
cần gì cô phải xin. Cô là chủ hộ. Cô muốn làm gì trong nhà này mà chẳng được.
Nàng mím
môi lại. Không nói năng, nàng chụp lấy cây bút bi, ký vào phần ý kiến của chủ
hộ. Cây bút bi để lâu ngày không ra mực, nàng phải dí đầu bút lên lòng bàn tay
nhiều lần. Chữ ký của nàng run rẩy, nét gạch bên dưới không được ngay, trông
giống như một chữ ký giả mạo.
Chàng lấy
giọng khách sáo:
- Nhờ cô
mà tôi được tạm trú trong nhà của mình. Cảm ơn cô.
Phần
nàng, nàng trở lại van lơn:
- Em van
anh, cho em được ở tạm đây với con cho đến sáng mai. Em ao ước được ôm con ngủ
trọn một đêm. Em van anh!
Giọng
nàng rạn đi, pha lẫn nước mắt. Chàng cảm động nhưng vẫn cố cứng cỏi:
- Tại sao
lại xin tôi? Xin một người tạm trú để được tạm trú? Có ai xin phép một khách
qua đường để ngủ tạm trong cái quán trọ?" (truyện ngắn Ngày
về không nắng, "Xuôi dòng", tập truyện, trang 68)
Tô Thùy Yên trở về thấy mất mình, nhân vật trong truyện trở
về thấy mất vợ, mất nhà (tạm trú trong nhà của mình mà vợ - tuy đã bỏ đi lấy chồng khác - là chủ hộ).
Tôi nhớ một chuyện khác thời xưa: chuyện Tô Tần. Tần là người
thời chiến quốc bên Tàu, giỏi biện thuyết, có tham vọng dùng miệng lưỡi của
mình để kiếm công danh. Không có tiền, ông xin mẹ già bán gia tài để làm lộ phí
đi các nơi du thuyết. Cả nhà ai cũng can ngăn, nói rằng: "Tại sao không
chịu cày cấy, buôn bán làm ăn mà chỉ muốn đem mấy tấc lưỡi để kiếm giàu sang,
bỏ cái nghiệp đã thành cầu cái lợi chưa được, sau này nghèo túng còn hối sao
được?"
Tần không nghe, cứ đi. Và đúng như lời khuyên can, sau nhiều
năm tháng đi đây đi đó không được gì, nghèo đói phải trở về nhà. Thấy vậy, mẹ
già mắng nhiếc, vợ đang dệt cửi ngồi yên, không thèm nhìn cũng chẳng thèm chạy
ra chào hỏi. Đói quá, Tần xin chị dâu cho ăn cơm, chị dâu không cho. Tần chảy nước
mắt tự trách mình. Đó là cái về của một người thất bại.
Nhưng Tần không chịu. Lại ra đi. Và lần này thành công lớn.
Khi về, có võng lọng, có lính hầu, tiền rừng bạc bể. Mẹ già chống gậy ra đường
xem. Chị dâu và vợ hỗ thẹn không dám nhìn lên, phủ phục ở ngoài ngõ đón. Tần
ngậm ngùi than: "Tình đời xem ấm lạnh, giá người thành thấp cao."
Hai lần về, hai khung cảnh, hai tình cảm, hai vở kịch. Thì
thế. Và phải như thế. Nếu không như thế thì thành chuyện thần tiên mất rồi.
Thời nào cũng có những Tô Tần, tuy mức độ có khác nhau. Giá của một Việt kiều
trở về tất cao hơn nhiều so với giá của một người tù trở về. Hàng năm, Tết đến
là có hàng trăm ngàn Việt kiều về lại quê hương. Trở về theo kiểu "vinh
quy bái tổ,” "áo gấm về làng." Nói tất cả thì không hẳn đúng. Nhưng
đa số đều về với tâm thức của những người "được" chứ không phải là
của những người "mất." Họ không trở về để "lục lại thời gian kiếm chính mình"
như Tô Thùy Yên, cũng không như người thương binh của Phạm Duy muốn trở về với
đời sống bình dị. Mà về với tâm thế của một Tô Tần thành đạt. Dù rằng để được
như thế, họ phải đánh đổi bằng cách cật lực làm ngày làm đêm, làm ca hai, ca
ba, làm overtime, làm 2, 3 job. "Về", đôi khi, là một
gánh nặng. Bổn phận, danh dự, thể diện vân vân. Có lẽ vì thế mà có người không
dám về. Hay chưa thể về. Tôi có một người bạn qua đây từ tháng 4/1975. Cho đến
giờ này, anh chưa về lại Việt Nam lần nào. Vì sợ Cộng Sản? Không. Vì không có
tiền, anh cho biết. Tại sao lại không có tiền, anh qua đây đến gần 30 năm mà?
Đúng ra là không đủ tiền. Vậy thì bao nhiêu mới đủ? Anh ngần ngừ một lát rồi
trả lời: "Tôi cũng chẳng biết bao nhiêu thì đủ. Nào phải xây lăng, đắp mộ
bên nội rồi bên ngoại, xây nhà từ đường rồi biếu tiền cho ông chú, bà dì, bà o,
rồi em út cháu chắt, rồi bà con xa bà con gần rồi bạn bè, đàn em cũ. Rồi du hí,
chơi bời, vân vân và vân vân. Chẳng lẽ đi Mỹ mấy chục năm trở về để bị mang
tiếng keo kiệt." Đại loại anh lý
luận như vậy. Rốt cuộc, loay hoay mãi, hết hẹn năm này về rồi sang năm, chưa
bao giờ anh "về" được.
Tôi chẳng dám khuyên gì anh bạn. Vì từ ngày sang đây, tôi
cũng chưa có dịp về. Tiền là một lẽ. Sợ hãi vu vơ là một lẽ khác. Nhưng lý do
chính là tôi biết tôi chẳng tìm thấy gì vui trong việc về. Tôi đã từng kinh qua
việc "về nhà" từ trại cải tạo độ nào. Được ra khỏi nhà tù thì mừng,
tất nhiên. Nhưng về nhà rồi chẳng thấy gì vui. Gia đình tôi còn nguyên vẹn,
không trở thành bi kịch như nhân vật trong truyện của Nguyễn Mộng Giác ở trên.
Nhưng không khác mấy với "ta về" của Tô Thùy Yên. Cảnh còn đó, người
còn đây, nhưng mọi tương quan đã khác. Phải tập làm quen với mọi thứ, kể cả với
người thân trong nhà. Một anh bạn tôi, ra đi từ tháng 4/1975. Sau gần hai chục
năm, anh trở về với tâm trạng hăm hở muốn tìm lại những kỷ niệm cũ. Anh đi thăm
nơi này nơi nọ, những chỗ đã từng ghi dấu những ngày vui xưa của anh. Những
tưởng sẽ tìm lại nguyên vẹn những gì xưa cũ. Nhưng tất cả đã mất, mất hẳn. Anh
không tìm thấy gì hết ngoài một cảm giác lạ hoắc y như thể anh tới một nơi xa
lạ. Cảnh, người và anh đều lạ lẫn nhau. Thế rồi cuối cùng, anh ngong ngóng ngày
về lại Mỹ, nơi mà trước đây khi ra đi với tâm trạng của một kẻ bị lưu đày.
"Về" Mỹ! Về Mỹ, chứ không "đi" Mỹ. Và cảm giác
"về" Việt Nam trở thành "đi" Việt Nam.
Có lẽ cũng chẳng phải một mình anh bạn có cảm giác như vậy.
Nhiều người "về" Việt Nam rồi "về" lại Mỹ. Không về Mỹ sao
được? Con đó, cháu đó, công ăn việc làm ở đó, tương lai ở đó, tiền hưu bổng ở
đó. Đi, đâm ra cũng là về. Và về, đâm ra cũng là đi. Viết đến đây, tôi nhớ một
câu chuyển kể của thầy Nhất Hạnh. Có hai vợ chồng nọ lấy nhau vì tình. Như mọi
cặp vợ chồng khác, lúc đầu họ sống rất hạnh phúc. Nhưng sau một thời gian,
người vợ mất hết vẻ tươi mát và người chồng mất hết sự dịu dàng và ngọt ngào.
Họ phải sống với nhau như một điều bắt buộc. Vì sợ tai tiếng. Vì sợ làm hai gia
đình buồn... Ông chồng chẳng cảm thấy hứng thú gì khi về nhà thấy mặt vợ. Và
ngược lại, bà vợ cũng chẳng thấy vui vẻ gì khi đợi chồng về. Hai người bắt đầu
đi tìm niềm vui riêng. Bà dành nhiều thì giờ lo việc chùa chiền. Còn ông thì
lấy cớ cần phải học thêm về ngành chuyên môn nên hết giờ làm nấn ná tìm cách ở
lại sở. Tóm lại, chẳng ai muốn về nhà. Hai chữ "về nhà" thân thương
mất hết ý nghĩa. Nhà vốn được hiểu như là một "tổ ấm," bây giờ là
"tổ lạnh." Về nhà thành ra "đi" nhà.
Hay
nói theo cách diễn đạt của Albert Camus, thì quê nhà (le royaume) (*) trở thành
chốn lưu đày (l'exile). Truyện ngắn "La femme adultère" (trong tập
truyện L'Exil et le Royaume) mô tả tâm trạng phức tạp của một người đàn bà tên
là Janine. Janine theo chồng đi bán hàng ở một thành phố Á Rập nằm trong sa
mạc. Nhìn thấy sa mạc lần đầu, nàng bị cuốn hút ngay vào cái lạ lùng, hoang
vắng và yên lặng của nó. "Bên trên
sa mạc, sự yên lặng mênh mông như không gian." Nàng cảm thấy như đó là một vương quốc mơ ước vĩnh cửu của nàng.
Đêm đó, trong phòng khách sạn, nằm bên người chồng đang say sưa ngủ, nàng ray
rứt xót xa. Bao nhiêu năm sống với người đàn ông gọi là chồng dường như chẳng
có mấy ý nghĩa. Nàng đi theo chồng, Marcel, giản dị chỉ "để làm vui lòng người đã cần nàng. Niềm vui duy nhất mà anh ta cho nàng
là sự nhận biết nàng là cần thiết. Có lẽ anh ta chẳng hề yêu nàng" (...) Hai người làm tình với nhau chỉ bằng cảm
giác trong bóng tối, chẳng hề nhìn thấy mặt nhau (...). "Nàng biết rằng Marcel cần nàng và nàng thì
nàng cần cái cần đó của anh ta." Tim nàng như thắt lại khi khám phá ra
rằng nàng đã kéo lê đời sống như thế trong cả hai mươi năm trời. Nàng cảm thấy
như mình bị lưu đày. Và bỗng nhiên nàng muốn được giải thoát. Ý nghĩ đó khiến
nàng ngồi bật dậy, mặc áo quần, lặng lẽ trốn chồng đi ra ngoài. Trong bóng đêm,
bất chấp gió lạnh, bất chấp nỗi sợ hãi, bất chấp tất cả, nàng chạy như điên như
cuồng về phía sa mạc. Đến một cái pháo đài bỏ hoang, nàng leo lên đứng dựa vào
góc tường, đắm đuối nhìn vào sa mạc - vương quốc yêu dấu của nàng. Nàng tự do
thưởng thức cái yên lặng, cái mênh mông và đủ thứ ảo tượng thực trộn cùng hư
dấy lên từ trời từ đất và từ cõi lòng nàng. Nhưng rốt cuộc, nàng phải trở về.
Và rồi nàng khóc, khóc nức nở. "Không
có gì đâu, anh yêu. Không có gì đâu," Janine nói với chồng. (Trích
đoạn lấy từ "The Adulterous Woman," Exile and the Kingdom,
Albert Camus, bản tiếng Anh của Justin O'Brien, Random House, NY, Hoa Kỳ, 1991)
Trong
ý niệm của Camus, lưu đày và quê nhà
không phải là không gian vật lý của một nơi chốn nào hết, mà là tâm thức con
người. "Nhà" hay "không nhà" là tâm giới chứ không là cảnh
giới. Trong cuộc sống, không thiếu người xem "nhà" là nơi tù ngục, tù
không có án, là nơi để người ta "giết đời nhau." Nhưng có lúc, chỗ
lưu đày lại được xem là nhà. Nhớ khi còn ở tù, mỗi lần xuất trại đi ra ngoài
lao động, lòng cứ ngong ngóng "về" láng. Về cái chỗ nằm chật hẹp vừa
đủ để đặt lưng của mình, về trong một không gian hạn hẹp, bị canh phòng, giám
sát đêm ngày. Cũng là "về" vậy. Điều mỉa mai là, trong hoàn cảnh tù
đày, chỗ nằm đâm ra trở thành "tổ
ấm."
Vậy, đâu là đi, đâu là về? Thật khó nói một lần cho xong.
Đẩy
ý niệm đi và về xa hơn, thì ta đụng với
khái niệm về cõi trần hay cõi thế, trần gian, cõi tục lụy, cõi ta bà. Đụng với
hình ảnh mà Trịnh Công Sơn cho là "tin buồn." Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người. Trần gian trở thành
nơi tạm bợ, là một chỗ đi:
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ)
Mà trần gian chẳng có gì vui, nên anh kêu gọi:
Thôi về đi, đường trần đâu có gì
Tóc
xanh mấy mùa
Có nhiều khi, từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ, tưởng hồn những năm xưa (Phôi pha)
Ít có nhạc sĩ (và cả
thi sĩ) nào đề cập đến chuyện đi và về nhiều như Trịnh Công Sơn. Nhạc của anh,
rốt cuộc, có thể tóm gọn trong hai chữ "đi" và "về.” Ra đời là
"đi" và chết là "về.” Anh cho ta thêm một hình ảnh mới tượng
trưng cho cuộc đời: một cõi đi về.
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên
hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về (Một cõi đi về)
Cũng trong cõi đó, Du
Tử Lê diễn đạt một cách khác:
Đi và về cùng một nghĩa như nhau
Người đông phương định nghĩa: Sinh ký tử quy. Sống gửi thác
về.
Gửi! Đi hay về cũng chỉ là gửi, tạm gửi (hay gửi tạm). Thầy
Nhất Hạnh dùng chữ "gửi" trong một ví von khá độc đáo:
Tôi gửi tôi nơi đất
Đất gửi đất nơi tôi
Tôi
mạn phép quảng diễn ra một cách khác: Tôi gửi tôi nơi Mỹ, Mỹ gửi Mỹ nơi tôi.
Tôi gửi tôi nơi em, em gửi em nơi tôi. Tôi gửi tôi nơi đời, đời gửi đời nơi
tôi...
Đất gửi đất nơi tôi = hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi.
Tôi
gửi tôi nơi đất = để một mai tôi về làm cát bụi / đất ôm anh đi về cội nguồn
Thực
ra, ví von trên của thầy Nhất Hạnh được đẩy xa hơn, thâm trầm hơn:
Tôi gửi tôi nơi Bụt
Bụt gửi Bụt nơi tôi.
Đất và tôi, Bụt và tôi, đi và về, sống và chết, Mỹ và Việt
Nam, ... và...và... Còn biết nơi nao là
chốn quê nhà. (TCS)
(12/2002)
(*) "L'Exil et le
Royaume" (Lưu đày và quê nhà) của Albert Camus. Tôi dùng lại chữ "quê
nhà" mà một dịch giả (tôi quên tên) trước 1975 ở miền Nam đã dịch thoát từ
tiếng Pháp "royaume" (vương quốc). Bản dịch tiếng Anh của Justin
O'Brien là "Exile and the Kingdom."
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét