(Kết thúc loạt bài “Những tư
tưởngđến sau”)
Nguyễn Hoài Vân -
SỰ LẪN LỘN GIỮA QUỐC GIA VÀ DÂN TỘC:
Khi
tuyên bố: “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư”, Lý Thường Kiệt đã nói lên một quan niệm
cổ xưa về quốc gia: Nam Quốc là “nơi cư ngụ” của Nam Đế, hay nói cách khác,
quốc gia là tổng hợp những gì thuộc quyền sở hữu của một triều Vua. Đó là tư tưởng
trọng quyền Vua, và là tư tưởng chính yếu của đa số các nhà cầm quyền ở
Đông Á cho đến gần đây.
Bên
cạnh đó, cũng ở ĐôngÁ thời xưa, đã có tư tưởng trọng quyền dân, cho nước là của dân, với những tôn chỉ như: “ý dân
là ý Trời”, hay “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Mặt
khác chữ “dân” trong “quyền dân” cũng không
hẳn là “dân tộc”. Sự lẫn lộn giữa “người dân” và “dân tộc”, lồng vào khuôn khổ
“quốc gia”, có thể đưa đến nhiều tai hại. Đó là lý do khiến chúng ta cần định nghĩa
rõ ràng khái niệm quốc gia.
ĐỊNH NGHĨA QUỐC GIA:
“Quốc
Gia” ngày nay thường là sự diễn dịch của chữ “nation”. Chữ này có nhiều nghĩa,
nhưng trong phạm vi câu chuyện của chúng ta, quốc gia có thể được coi như một
tập thể quy tụ những người:
- cùng nhìn về
những mục tiêu chính yếu chung,
- cùng có một số
giá trị căn bản,
- cùng chấp nhận
một mô hình tổ chức,
- và cùng chia sẻ
một tập hợp cấu trúc.
Người
ta có thể cụ thể hoá quan niệm quốc gia bằng định nghĩa: quốc gia là một tập
hợp quy tụ những người cùng chấp nhận trung thành với một Hiến Pháp. Tuy nhiên
đây chỉ là một cách nói “hành chánh” (ai trong người dân biết rành hiến pháp?),
vì trong thực tế, có thể có những chuyện không ghi thành văn trên một Hiến Pháp
nhưng vẫn nằm trong bốn điểm căn bản mà chúng ta đã đề ra ở trên (thí dụ: Anh
Quốc không có hiến pháp). Xin lần lượt xét qua bốn yếu tố này.
MỤC TIÊU CHÍNH YẾU:
Mục
tiêu chính yếu định cho tập hợp quốc gia một hướng đi. Có một số mục tiêu rất
dễ hiểu, được thấy nơi mọi quốc gia, cũng như mọi tập thể, đó là:
- trường tồn,
- phát triển,
- và bảo vệ tính cá
thể của tập hợp.
Điều
này ví như một sinh vật, nếu muốn sống thì ít nhất phải ý thức được ba mục tiêu
vừa kể, vì:
-
không tìm cách trường tồn thì đương nhiên là sẽ biến
mất, không phát triển thì sẽ bị những sinh vật
phát triển hữu hiệu trong môi trường lấn át và tiêu diệt,
-
không bảo vệ được tính cá thể của mình, thì sẽ không còn biết cái gì thuộc về mình và
cái gì không thuộc về mình, để một mặt giữ lại những yếu tố của mình, bảo vệ chúng,
không cho mất đi, mặt khác, chống cự với những gì không phải của mình, từ ngoài
xâm nhập nếu chúnglàm hại cho sự tồn tại của mình với tính cách một cá thể.
Ta có thể nhận xét :
Trường tồn và
phát triển buộc phải thích nghi với môi trường chung quanh. Thích nghi là đón
nhận những yếu tố đến từ môi trường chung quanh và tự điều chỉnh, tu bổ, để phù
hợp với môi trường ấy. Ví như đứa bé muốn sống (trường tồn) và lớn khôn (phát
triển), thì phải mở miệng để ăn, mở mũi để thở, mở trí óc để học hỏi. Như vậy, trường tồn và phát triển bao hàm tính cách
“mở”.
Ngược lại, việc bảo
vệ tính cách cá thể thiên về “đóng”. Muốn bảo vệ cái thuộc về mình cho khỏi
tiêu hao mất mát và chống lại những yếu tố tai hại từ ngoài xâm nhập vào thì
đương nhiên là phải “đóng”, phải nhận biết và giữ vững ranh giới giữa “ta” và
“không ta”.
Như vậy, ba mục đích vừa nêu trên của một tập thể, như
tập thể quốc gia, đi trên hai chiều hướng đối nghịch nhau: vừa mở ra với môi
trường chung quanh, nhưng lại vừa đóng lại, để tự che chở đối với bên ngoài. Đó
là sựmâu thuẫn thông thường của sự sống, của các“hiện tượng sinh động”…
Ngoài
ra, khi áp dụng vào một quốc gia, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, mỗi
mục tiêu nói trên đều có thể được thu gọn vào một số sắc thái thực tế, thí dụ
như đối với nước ta ngày nay:
- phát triển đương
nhiên không phải là mở mang biên giới, tranh dành đất đai của các nước láng
giềng như ở thời Lê, Nguyễn…mà là phát triển kinh tế,
- bảo vệ tính cá
thể không chỉ là chống đỡ trước những làn sóng xâm lăng từ bên ngoài, kể cả về
văn hoá, kinh tế, chính trị, mà cũng là ngăn ngừa sự tan rã nội bộ, do nạn kỳ
thị vùng miền, phe phái, tôn giáo v.v… Cần nói là nếu một phe phái, tôn giáo,
hay địa phương không chấp nhận ba mục tiêu căn bản của tập thể quốc gia như đã
nói ở trên, thì sẽ không thể là thành phần của quốc gia được nữa. Nếu số thành
phần không chấp nhận những mục đích chung ấy nhiều đến một mức độ nào đó, thì
quốc gia tan rã. Hiểm họa này đối với nhiều quốc gia hiện đại quan trọng không
kém hiểm hoạ bị lệ thuộc bên ngoài.
I) HỆ THỐNG GIÁ
TRỊ CĂN BẢN:
Đa
số thành viên trong một cộng đồng quốc gia cần chấp nhận một số giá trị căn
bản, trong số đó có những giá trị dùng để tranh thủ các “mụctiêu chính yếu” vừa
được nói đến ở trên. Nhờ hệ thống giá trị này mà trước một sự việc, người ta có
được những tiêu chuẩn để đánh giá rằngviệc ấy tốt hay xấu, hay hay dở, nên hay
không…
Hệ
thống giá trị thường chịu ảnh hưởng của tôn giáo, triết học, chủ thuyết hay ý
thức hệ thịnh hành. Cần ghi nhận là trong khi những mục tiêu chính yếu của một
tập thể có tính cách gần như tuyệt đối, vì quy định sự sống còn của tập thể ấy,
thì ngược lại, hệ thống giá trị có tính cách tương đối. Những thành tố của nó
có thể bị thay đổi hay bị đào thải với thời gian. Tuy nhiên, trong một giai
đoạn nhất định, thì những giá trị căn bản được đa số thành viên trong xã hội thoả
thuận, hiển hiện một cách tương đối rõ rệt. Một thiểu số nào đó có thể có những
suy nghĩ khác với những giá trịđược đa số chấp nhận, mà vẫn nằm trong tập thể
quốc gia với điều kiện trong thực tế hàng ngày,
thiểu số này vẫn hành động theo đúng các mục tiêu sống còn của tập thể. Cũng
cần nhận xét là hệ thống giá trị của cộng đồng quốc gia càng rộng rãi thì hệ
thống ấy càng dễ được nhiều thành phần chấp nhận, và ngược lại.
II) MÔ HÌNH TỔ CHỨC:
Sinh hoạt của cộng đồng quốc gia buộc phải dựa trên
một mô hình tổ chức thích nghi với các điều kiện thực tế, với các mục tiêu
chính yếu cũng như hệ thống giá trị được đa số thành phần trong cộng đồngchấp
nhận. Vấn đề này xin dành cho một diễn đàn khác.
III) TẬP HỢP CẤU
TRÚC QUỐC GIA:
Tập
hợp các cấu trúc ở đây chỉ những “nguyên liệu” vật chất để xây dựng một quốc
gia, như yếu tố địa lý (lãnh thổ, tài nguyên), hạ tầng cơ sở, yếu tố nhân văn
(cấu trúc xã hội) v.v…
Ta
có thể ví những mục tiêu chính yếu của quốc gia như một con đường, hệ thống giá
trị căn bản như luật đi đường, mô hình tổ chức như người lái xe và tập hợp cấu
trúc như chính chiếc xe.
Chiếc
xe có những đặc tính mà người lái cần biết rõ để sử dụng tối đa khả năng của nó
và tránh làm hư xe. Đó là ảnh hưởng của cấu trúc trên mô hình tổ chức. Rồi khi
lái xe, cũng phải biết luật đi đường, và nhất là biết phải lái đi đâu, để làm
gì ?
§§§§§§§§§§§
TƯƠNG QUAN GIỮA DÂN TỘC VÀ QUỐC GIA:
Dân
tộc khác với quốc gia. Một quốc gia có thể bao gồm nhiều dân tộc (như Hoa Kỳ,
Bỉ, Trung Quốc…), và một dân tộc cũng có thể sinh sống trên nhiều quốc gia (như
các dân tộc Ả Rập, Kurde, Triều Tiên, Phúc Kiến, Quảng Đông, Khách Gia…). Tuy
nhiên, dân tộc và quốc gia có những tương quan mật thiết :
Quốc
gia khó mà tự nhiên có. Sự hình thành của quốc gia thường gắn liền với những
điều kiện lịch sử, địa lý, với ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố dân tộc.
Một
biệt lệ đáng chú ý là các quốc gia đã được kiến tạo dựa trên quyền lợi của các
cường quốc, bất chấp yếu tố dân tộc,vào lúc chế độ thực dân cáo
chung. Điều này đưa đến tình trạng bất ổn nơi nhiều vùng đất liên hệ, đôi
lúc còn nổ tung thành những cuộc chiến lớn, ảnh hưởng đến toàn thế giới.
Nói
thế để hiểu rằng yếu tố dân tộc rất quan trọng, vì dân tộc thường có khuynh
hướng tự nhiên hội đủ những điều kiện sống còn của một tập thể như đã được trình
bày ở trên. Thật vậy, dân tộc tự nó đã có một quá khứ lâu dài, nên những điều kiện
sống còn đương nhiên là đã hội đủ. Quốc gia không đương nhiên có được được lợi
điểm này. Vì thế, sự hình thành của quốc gia thường phải dựa vào dân tộc. Cần
thêm là dựa vào dân tộc cũng là thích nghi với tình chí của người dân, qua truyền
thống dân tộc. Thích nghi với tình chí của người dân là điều kiện để cho mọi
chính sách, mô hình tổ chức … có thể thành công.
NHỮNG TAI HẠI CỦA SỰ LẪN LỘN QUỐC GIA VÀ
DÂN TỘC :
Chúng
ta đã xét qua thế nào là quốc gia, đã nhận rõ quốc gia không phải là dân tộc
tuy hai thực thể có những tương quan mật thiết với nhau, bây giờ xin thử xét
xem khi dân tộc “là” quốc gia thì sẽ có hậu quả ra sao?
Có
thể bỏ qua một bên trường hợp những dân tộc sinh sống trên nhiều quốc gia, mà
chỉ bàn đến những quốc gia có nhiều dân
tộc. Nếu một trong những dân tộc trong quốc gia ấy tự cho mình “là” quốc
gia, thì các thành phần dân tộc khác sẽ tự cảm thấy mình bị gạt ra ngoài tập
thể quốc gia. Trong trường hợp này, tính cá thể của quốc gia, như đã nói ở trên,
có thể bị tổn hại: các thành phần tự cảm thấy mình không còn ở trong tập thể quốc
gia nữa, sẽ không còn hết lòng hướng về những mục tiêu chính yếu của tập thể,
mà chỉ nghĩ đến sự trường tồn và phát triển của riêng mình. Tai hại hơn nữa, các
thành phần này còn có thể nghĩ đến việc hội nhập vào một tập thể quốc gia khác,
nhất là khi có những thế lực bên ngoài can thiệp vào…
Vì
thế: định nghĩa quốc gia cần rộng rãi vừa đủ, để một mặt tạo một môi trường tốt
đẹp cho sự sinh hoạt của mọi thành phần, đặc biệt là những thành phần thiểu số
hay mới hội nhập sau này, mặt khác, vẫn bảo vệ được tính cá thể của tập hợp.
TƯƠNG LAI CỦA KHÁI NIỆM DÂN TỘC:
Nhiều
người có thể cho rằng: tư tưởng dân tộc đã lỗi thời, nhân loại đã bước sang một
giai đoạn mới trong đó con người gần nhau hơn, liên hệ với nhau ngày một thêm
chặt chẽ, và do đó các ranh giới giữa dân tộc này với dân tộc khác buộc sẽ phải
ngày một phai nhòa đi.
Cách
nhìn này, tuy được xác nhận bởi khoa học khách quan, nhưng vẫn vấp phải những
yếu tố chủ quan, khiến cho nó vẫn chưa thể hiện được trong thực tế. Như chúng
tôi đã trình bày ở một bài khác, con người ngày nay có khuynh hướng tìm về với
những truyền thống, trong đó có truyền thống dân tộc. Thật vậy, khi tương lai
đầy bất trắc và lo sợ, hiện tại nhiều thất vọng và ưu tư, thì người ta có
khuynh hướng quay về quá khứ, tìm một điểm tựa được cảm nhận như an toàn, vững
chắc …Khuynh hướng này đối lại với khuynh hướng tiến bộ (modernisme) theo đó
giải pháp của bài toán được đặt ra trong hiện tại nằm ở tương lai, ngày nay
buộc phải hơn ngày qua, cũng như tương lai buộc phải hơn hiện tại và quá khứ. Chúng
tôi đã nêu lên những vấn đề khó khăn mà cả hai khuynh hướng nêu trên có thể đặt
ra, và đề nghị một quan điểm dung hoà dựa trên triết học Đông Phương, ở phần
“Tam Giáo”.
Có
thể một ngày nào đó ảnh hưởng của ý tưởng dân tộc sẽ giảm bớt đi, nhưng đó
không phải là việc của hiện tại hay của một tương lai gần. Trong hiện tại,
chúng ta cần vận dụng ý tưởng dân tộc để hàn gắn những mảnh vụn của cái bình
quý Việt Nam đã vỡ tan từ khi đụng chạm với sắt thép Tây Phương, để chữa trị
căn bệnh phân hoá ngặt nghèo đã làm đất nước điêu linh. Điều tối cần thiết là
phải tuyệt đối tránh rơi vào nạn dân tộc chủ nghĩa cực đoan, hẹp hòi, nguồn của
những thảm họa chắc chắn.
Tóm
lại, dù cho “lập trường dân tộc” có là phương thuốc cốt yếu để giải quyết những
khó khăn hiện tại của đất nước, chúng ta cũng cần xác định rõ một khái niệm
quốc gia rộng rãi hợp tình, hợp lý, để tránh rơi vào những khó khăn khác.
Đừng
quên mọi dòng sông đều là sự kết hợp của nhiều nguồn nước, đến từ Đại Dương và
sẽ cùng chảy về Đại Dương bao la…
Nguyễn
Hoài Vân
14/2/1991
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét