Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Thụy My - Nhà báo Phạm Chí Dũng: Phong trào dân sự tại Việt Nam đã chín muồi


Thụy My (RFI)

Nhà báo, tiến sĩ Phạm Chí Dũng. RFI/Capdevielle

Tại Việt Nam vào tháng 8/2013, luật gia Lê Hiếu Đằng đã đề xuất việc thành lập đảng Dân chủ Xã hội, chấm dứt sự độc quyền của đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị. Ý kiến này được nhiều người ủng hộ và thảo luận sôi nổi. Đến cuối tháng 9/2013, một tuyên bố về các quyền dân sự và chính trị do một nhóm trí thức vốn là những người khởi xướng Kiến nghị 72 phổ biến trên mạng.

Chúng tôi đã đặt câu hỏi với nhà báo tự do, tiến sĩ Phạm Chí Dũng tại thành phố Hồ Chí Minh về các vấn đề trên.

RFI: Kính chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất cảm ơn anh đã nhận trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ. Thưa anh, ở Việt Nam đang diễn ra những cuộc tranh luận về việc nên lập đảng chính trị mới hay theo phương thức xã hội dân sự nhằm cải thiện không khí dân chủ. Quan điểm của anh như thế nào ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Theo quan điểm của cá nhân tôi, ngôi nhà nào cũng cần phải có móng. Xã hội dân sự với các phong trào của nó sẽ mang tính thiết thực hơn là mô hình đảng phái độc lập còn khá mơ hồ ở Việt Nam.

Lịch sử Việt Nam đã trải nghiệm không biết bao nhiêu lần về chuyện thừa thãi lòng nhiệt huyết nhưng lại thiếu tính hành động. Một đảng Dân chủ Xã hội hay nhiều đảng phái khác có thể được khởi xướng, thậm chí có thể hình thành ít nhất trên danh nghĩa mà không bị nhà cầm quyền cô lập, trong bối cảnh tác động về dân chủ và nhân quyền của cộng đồng quốc tế đã trở nên mạnh mẽ hơn hẳn nội lực phản ứng của chính quyền. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng muốn hoạt động được, và hơn thế là triển khai thành công tính tư tưởng cùng phương châm hành động của nó, tổ chức đảng lại cần phải có lực lượng.

Cho đến nay, lực lượng cho một đảng phái vẫn là một câu hỏi để ngỏ trong lòng những người nhiệt thành muốn thay đổi nhưng chưa biết làm thế nào. Thậm chí để tiến hành một cuộc cách mạng xã hội, người ta cần phải đổi mới chính mình trước khi bàn đến việc thay đổi người khác.

Khác hẳn với định chế đảng phái chính trị, xã hội dân sự với các phong trào dân sự không nhắm đến một cuộc tranh đua, giành đoạt về quyền lực đối với chính thể đương nhiệm. Đặc biệt trong bối cảnh thể chế chính trị một đảng được coi là “duy nhất” ở Việt Nam, mối lo về cạnh tranh chính trị càng trở nên nhạy cảm và quá khó xử.

Với sứ mệnh được mặc định của mình, xã hội dân sự chỉ nhằm làm cho chính quyền nhận ra được những sai lầm trong chính sách và quá trình thực hiện chính sách, từ đó tiến hành hủy bỏ hoặc điều chỉnh những chính sách, nhân sự thực hiện, làm gần gũi và đồng cảm hơn giá trị “của dân, do dân và vì dân”.

Ôn hòa, bất bạo động, tránh đổ máu là những đặc trưng trong phương pháp hoạt động của xã hội dân sự và các phong trào dân sự. Chính phương châm này đã loại trừ tâm trạng lo lắng đầu tiên của những người muốn tham gia phong trào dân sự là liệu họ có bị sách nhiễu hoặc thậm chí bị bắt bởi những hoạt động thuần túy xã hội của mình.

Cũng cần nhắc lại ngay sau đề xuất thành lập đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng vào tháng 8/2013, nhiều trí thức đã nổi lên tranh luận về câu hỏi “Thời cơ đã chín muồi chưa?”. Nhưng ngay lập tức, những người khác hỏi lại “Thế nào là chín muồi?”.

“Chín muồi” cũng vì thế đã trở thành lời thách đố lớn nhất nếu thiếu người khởi xướng có uy tín và năng lực hành động. Và cho dù có được người khởi xướng thì lại thiếu lực lượng điều hành và cốt yếu hơn thế nữa là không có nổi lực lượng thừa hành.

Nhưng dễ dàng hơn nhiều so với mô hình đảng phái chính trị, hoạt động của phong trào dân sự với mục tiêu xã hội có thể được chấp nhận ở mức khiêm tốn, tự lượng sức mình và thỏa mãn nhiều hơn hẳn những điều kiện về “chín muồi”.

RFI: Như vậy theo anh đang có những điều kiện nào cho sự chín muồi của một phong trào dân sự ở Việt Nam?

Với tôi thì rõ ràng đó là nhu cầu xã hội, yêu cầu của nhân dân.

Câu trả lời rõ rệt nhất cho độ chín muồi đến thời điểm hiện tại vẫn là “lòng dân”. Nước lên thuyền lên, nhưng nước xuống thì thuyền cũng phải xuống theo – Nguyễn Trãi đã dạy như thế và cũng có không biết bao nhiêu bài học lịch sử nhưng lại không được thấm nhuần vào những cái đầu đặc sệt lúc nào cũng chỉ nghĩ đến quyền và tiền.

Kinh tế lụn bại, tham nhũng ghê rợn chưa từng thấy, xã hội nhiễu nhương đạo lý, chính trị bất nhất đạo đức, tình cảm của người dân chuyển từ bức xúc đến phẫn nộ rồi tràn sang phẫn uất. Trong bối cảnh đó u uất đó, những người muốn có một sự thay đổi lớn lao về thể chế chính trị không phải là ít.

Xã hội dân sự là một trong những phương cách tốt nhất để tạo nên sự thay đổi cấp thiết ấy.

Hãy làm sao để người dân nhận ra rằng được sinh ra từ lòng xã hội dân sự, các phong trào dân sự không phải là một khái niệm cao siêu mà giai cấp nông dân và công nhân không thể với tới được.

Ngược lại, hoạt động dân sự trong xã hội dân sự là những gì thiết thân và gần gũi nhất với đời sống dân sinh, nhằm hỗ trợ giải quyết một cách thấu tình đạt lý những bức xúc của dân chúng liên quan đến nhiều chủ đề thiết thực trong hiện tồn Việt Nam như Hiến pháp, tham nhũng, đất đai, môi trường, biển đảo, quyền lợi người lao động, thị trường, các chính sách công bất hợp lý…

Có quá nhiều những vấn đề cần phải giải quyết trong bối cảnh chính quyền không có đủ năng lực và ngày càng mất đi sự công tâm cần có, để bảo đảm việc chấp nhiệm một cách công bằng. Đó cũng chính là nhu cầu xã hội đang nảy sinh trong lòng xã hội Việt Nam đương đại, đòi hỏi phải có những tác động phi chính phủ, tức hoạt động nằm ngoài khuôn khổ của đảng và chính quyền, giúp cho người dân nhận thức được bản chất của những mâu thuẫn, khó khăn, xung đột và tìm cách giải quyết phần nào những mối nguy đó.

Có một ví dụ điển hình là vào giữa năm 2013, một tác động ngoại biên đã gây dấu ấn đáng kể đối với giới doanh nghiệp ở Việt Nam. Đó là vụ cáo buộc của Tổ chức phi chính phủ lớn thứ hai trên thế giới – Global Witness - đối với Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai về những khuất tất của tập đoàn này liên quan đến đất đai, môi trường và điều kiện sống của nông dân ở Campuchia. Cho tới nay, vụ việc này dù chưa có đáp số cuối cùng, nhưng rõ ràng hình ảnh của Hoàng Anh Gia Lai đã bị giảm sút khá lớn không chỉ trong thương trường nội địa, mà cả trên thương trường quốc tế. Với lý do đó, chắc chắn những dự án mà Hoàng Anh Gia Lai đang tiến hành ở Campuchia và Lào sẽ phải được chính tập đoàn này điều chỉnh sao cho bớt bị dư luận phản ứng.

Cũng có hàng ngàn ví dụ tương tự trong hai mươi năm qua ở Việt Nam, kể từ thời điểm bắt đầu đường parabol hướng lên của thị trường bất động sản và kéo theo rất nhiều vụ thu hồi đất không thỏa đáng, trái pháp luật và sau này là bất chấp đạo lý đối với nông dân. Tất cả những mâu thuẫn đó đã tích tụ đủ dày để biến thành ý thức phản kháng của một bộ phận nông dân bị mất đất, biến họ thành dân oan và tạo nên mối xung khắc, dẫn tới xung đột với giới quan chức chính quyền tại nhiều địa phương. Vụ việc thu hồi đất hết sức bất công tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên năm 2012 mà hậu quả còn kéo dài đến nay là một bằng chứng điển hình. Chính những xung đột đó đang rất cần đến sự giúp đỡ của các tổ chức dân sự có kiến thức về pháp luật và lòng trắc ẩn với đồng loại.

Hoặc với vụ chôn thuốc trừ sâu xuống lòng đất của một doanh nghiệp ở Thanh Hóa có tên là Nicotex Thanh Thái bị phát hiện vào tháng 9/2013, người dân đã có đủ bằng chứng, báo chí và dư luận phẫn nộ, song các cơ quan chức năng vẫn trù trừ một cách rất đáng nghi ngờ. Vì sao vậy? Phải chăng đã có những mối quan hệ khuất lấp nào đó giữa thủ phạm gây án ung thư cho người dân địa phương với một vài cơ quan hay những quan chức nào đó? Điều rõ ràng là nếu vụ việc này xảy ra ở những nước phát triển và có xã hội dân sự trưởng thành như Mỹ hay Anh, Pháp, chắc chắn các tổ chức phi chính phủ đã không để yên, cho dù nhà chức trách địa phương có tìm cách bao che.

RFI: Theo nhận xét của anh, thì thái độ và cách hành xử thường bị chỉ trích là vô cảm của chính quyền đã tác động đến tâm lý người dân như thế nào?

Tác động một cách tiêu cực! Ở Việt Nam, trong khi vai trò độc đảng đã đi vào lối mòn và gây ra nhiều hậu quả về đặc quyền và đặc lợi, tình trạng hoàn toàn thiếu đối trọng chính trị và vai trò của xã hội dân sự đã kéo theo tình trạng thiếu minh bạch trở thành một cố tật, và cố tật này xem ra rất khó được chữa lành. Luôn đứng gần chót bảng tổng sắp các nước có độ minh bạch thấp nhất của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, giới quan chức Việt Nam từ nhiều năm nay đã ép tính minh bạch ngược chiều với đà tăng vọt lợi nhuận của các nhóm lợi ích độc quyền về xăng dầu, điện lực, các nhóm lợi ích thị trường như bất động sản, chứng khoán, và các nhóm lợi ích chính sách như Vinashin và Vinalines.

Dù chẳng hề có một con số khảo sát hay điều tra nào từ phía các cơ quan nhà nước, nhưng bằng vào quá nhiều phản ứng xã hội đã dồn dập xảy ra ở Việt Nam, đặc biệt là vụ một người dân là Đặng Ngọc Viết xả súng trả thù cán bộ quản lý đất đai ở tỉnh Thái Bình vào tháng 9/2013, rõ ràng tâm lý phản kháng của một bộ phận dân chúng đang có chiều hướng vượt qua lằn ranh sợ hãi và có thể biến thái thành hành vi mất kiểm soát.

Đặc thù tâm lý trong xã hội Việt Nam là lòng dân càng bất mãn thì phản ứng của người dân càng lúc càng trở nên thiếu kềm chế. Trong một số vụ việc mấy năm gần đây, đã xuất hiện dấu hiệu vượt khỏi tâm lý kềm tỏa sợ hãi để bước đến tâm trạng phản kháng, thậm chí sẵn sàng đối đầu, cho dù đó chỉ là hành động đối kháng tự phát chứ không được tổ chức. Có thể nêu ra hàng loạt vụ việc người dân phản ứng về đất đai ở nhiều địa phương như Nam Định, Bắc Giang, Hưng Yên, Nghệ An… và ngay tại ngoại thành Hà Nội, rất gần với tổng hành dinh của Chính phủ và Bộ Chính trị của Đảng. Vụ Đặng Ngọc Viết chính là một điển hình cho lòng phẫn uất đã biến thành tự phát vô cảm đến mức bất chấp của dân oan, đối diện với thói vô lương tâm của giới quan chức địa phương.

Hoặc vụ Mỹ Yên và cách hành xử “côn đồ hóa” của những người bị người dân cho là thẻ ngành không mang sắc phục, đã làm dấy lên làn sóng phản ứng có khuynh hướng “tử vì đạo” của vài trăm linh mục và nửa triệu giáo dân vùng Nghệ An, cùng lòng hiệp thông chưa từng thấy giữa các giáo phận trong cả nước. Sau vụ tranh chấp đất đai tại nhà thờ Thái Hà ở Hà Nội vào năm 2011, có thể nói vụ Mỹ Yên chỉ thiếu chút nữa đã thổi bùng ngọn lửa đối đầu công khai và sẵn sàng chết vì đạo của giáo dân đối với chính quyền địa phương, mà rất có thể dẫn tới hậu quả không thể nào lường hết nếu xung đột tiếp tục leo thang.

Mà các tôn giáo và giới tín đồ lại là một thành tố không thể thiếu của xã hội dân sự. Trong lịch sử, các tôn giáo ở Việt Nam như Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa hảo… đã đóng góp cho xã hội nhiều giá trị tinh thần lẫn vật chất cho người dân, đúng với tiêu chí cho người nghèo và vì người nghèo. Vậy nếu những hoạt động từ thiện xã hội của các tôn giáo bị ngăn cản và bị cấm đoán thì sao? Lẽ tự nhiên, đó chính là lúc bản thân các tôn giáo và cả những giới không tôn giáo thấy cần phải hòa quyện với nhau để đấu tranh đòi lại sự công bằng, ít nhất là công bằng cho đúng với những mỹ từ “tốt đạo đẹp đời” hay “kính Chúa yêu nước” mà Nhà nước ưa phô diễn.

Nhức nhối xã hội và những tiền đề hỗn loạn xã hội – điều kiện cần cho xã hội dân sự hình thành – đã hội tụ đủ, thậm chí tràn ứ. Vấn đề còn lại chỉ là các phong trào dân sự ở Việt Nam sẽ khởi sự như thế nào mà thôi.
RFI: Theo anh thì xã hội Việt Nam đã có những tiền đề nào cho phong trào dân sự?

Có thể xem phong trào phản biện Bauxite từ năm 2007 là tiêu điểm đầu tiên mang dấu ấn của nhóm trí thức xuất thân từ lòng đảng, nhưng đậm nét cách tân và có quan điểm cách mạng hơn nhiều so với những lề thói cũ. Công cuộc phản đối dự án khai thác bauxite của Trung Quốc cũng có thể có ý nghĩa không kém thua so với 11 cuộc biểu tình chống sự can thiệp của Bắc Kinh vào Biển Đông vào năm 2011. Một trong những biểu hiện hiệu quả và bền vững nhất mà nhóm trí thức phản biện Bauxite đã làm được là duy trì được trang mạng Bauxite Việt Nam tồn tại trong suốt 5 năm qua, cho dù phải chịu không ít áp lực từ phía chính quyền và ngành công an.

Đến đầu năm 2013, nhóm Kiến nghị 72 sinh ra và phát triển tại Việt Nam lại là một hiện tượng có vẻ như đột biến, nhưng thực chất là tuân theo đúng quy luật biện chứng “lượng đổi dẫn đến chất đổi”. Sau nhiều năm không nhận ra một sự thay đổi và cải thiện đáng kể nào từ phía đảng và chính quyền, giới trí thức bất đồng tiên phong đã phải chỉ thẳng một điều cốt tử: một khi nền chính trị Việt Nam không có đối trọng - được thể hiện bởi những lực lượng vật chất - những chính sách bất hợp lý về tư tưởng và bất công về quyền lợi của nó chỉ có thể dẫn dân tộc đến hố sâu phân hóa và tự triệt tiêu động lực tiến bộ. Có thể coi sự hình thành của “Kiến nghị 72” liên quan đến điều 4 Hiến pháp là dấu mốc cực kỳ quan trọng cho việc khởi xướng tiền đề của hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam trong tương lai.

Sau “Kiến nghị 72”, một số blogger trẻ cũng đã khởi phát phong trào 258 – một hoạt động mà về hình thức chỉ là tiếp xúc và trao bản tuyên bố phản đối điều 258 Bộ luật hình sự cho các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài và một số tổ chức nhân quyền quốc tế, nhưng thực chất là bày tỏ thái độ phản đối công khai đối với chính quyền theo tinh thần minh bạch hóa và tác động thay đổi chính sách của xã hội dân sự.

Cũng chủ yếu từ năm 2011 đến nay, hoạt động truyền thông xã hội tại Việt Nam đã hình thành một cách dày dạn và tỏ ra can đảm hơn hẳn hoạt động thông tin lề trái ở Trung Quốc. Số người viết ngày càng nhiều, nhưng quan trọng hơn, số bài viết có chất lượng và có sức lan tỏa, tính kết nối với hệ thống truyền thông quốc tế ngày càng tăng. Truyền thông quốc tế lại tác động đến nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và chính phủ các quốc gia hàng đầu về dân chủ và nhân quyền, tạo nên hiệu ứng tác động ngược lại đối với nhà cầm quyền ở Việt Nam.

Chính hiệu ứng “trong ra ngoài vào” như vậy đã thực sự làm nên một đối trọng về áp lực dư luận đối với hệ thống báo đảng, khiến cho các cơ quan tuyên giáo từ trung ương đến địa phương không thể xem thường truyền thông xã hội. Trong một số trường hợp liên quan đến “Kiến nghị 72”, hai vụ tuyệt thực của Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, vụ bắt rồi thả Phương Uyên, đề xuất thành lập đảng mới của ông Lê Hiếu Đằng… giới báo chí lề đảng đã phải chọn cách đứng trước vành “đối chất” thay vì phẩy tay bỏ qua vào những năm trước.

Truyền thông xã hội lại là một thành phần đương nhiên của xã hội dân sự. Đó cũng là lý do để có thể tạm thời kết luận rằng một phần quan trọng và có thể có tính quyết định của xã hội dân sự đã manh nha và đang dần khởi sắc ở Việt Nam, cho dù chân đứng của nó có lẽ còn khá lâu nữa mới vững chắc và đồng vị tại một điểm thống nhất nào đó. 

RFI: Thưa anh, đối với sự hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam. yếu tố nào mang tính quyết định: yếu tố đối nội hay đối ngoại?

Nội lực tất yếu là yếu tố quyết định trong dài hạn. Nhưng trong ngắn hạn, điều kiện sơ sinh cho xã hội dân sự lại đến từ cộng đồng quốc tế và trào lưu dân chủ hóa trên thế giới.

Nhìn sâu vào bản chất, tình hình chính trị ở Việt Nam vào năm 2013 đã thay đổi khá nhiều so với những năm trước, tuy chỉ là một sự thay đổi rất kín đáo mà không dễ nhận ra và càng khó để lượng định. Tuy nhiên, nếu hệ thống lại những hoạt động đối ngoại giữa Việt Nam với các quốc gia như Mỹ, Pháp, Anh, và với cả công đồng Công giáo Vatican, có thể thấy là một độ mở chính trị dường như đã được nhà nước Việt Nam cam kết với quốc tế, dẫn đến kết quả tuy chưa khả quan, nhưng đã có nét đột biến từ việc bất ngờ thả nữ sinh Phương Uyên ngay tại tòa án Long An – sự kiện diễn ra chưa đầy một tháng sau chuyến đi Washington của ông Trương Tấn Sang.

Xu hướng đối ngoại và góc mở đối nội cũng cho thấy nếu vào tháng 8/2013, ông Lê Hiếu Đằng và nhóm cộng sự bền tâm và có đủ lực lượng để lập nên chính đảng Xã hội Dân chủ, sự việc chưa từng thấy này cũng khó tạo ra một cái cớ đủ tính pháp lý để chính quyền phản ứng mạnh mẽ, tức có thể bắt giam hoặc đàn áp những người khởi xướng lập đảng.

Hướng mở về đối ngoại kéo theo độ mở về chính trị và cho thấy chưa bao giờ từ năm 1975 đến nay, Nhà nước Việt Nam lại “cần” đến cộng đồng quốc tế như bây giờ. Nhu cầu thiết thân về quyền lợi và quyền lực như thế đang liên quan trực tiếp đến các chủ đề hấp dẫn như Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương – TPP, và cả lời hứa hẹn về “đối tác chiến lược toàn diện” từ phía người Mỹ, trong đó trước mắt là một vài động thái liên minh quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ để giảm thiểu tác động rất tiêu cực từ người bạn láng giềng tham lam có truyền thống ở phương Bắc.

Một động thái khác đáng chú ý sau cuộc gặp Obama – Sang, vào ngày 27/8/2013, phái đoàn Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã công bố 14 lời hứa về nhân quyền của chính phủ Việt Nam trước Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trong đó có cam kết đầu tiên và quan trọng nhất: “Thông qua các chính sách và các biện pháp để đảm bảo tốt hơn tất cả các quyền căn bản về kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và chính trị theo thông lệ quốc tế đã công nhận”.

RFI: “Thông lệ quốc tế đã công nhận” có thể hiểu là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, công ước quốc tế về chống tra tấn…

Vào cuối tháng 9/2013, một tuyên bố về các quyền dân sự và chính trị đã được nhóm trí thức độc lập, cũng là những người khởi xướng “Kiến nghị 72”, phổ biến trên mạng.

Hiển nhiên là những tiền đề đầu tiên của xã hội dân sự đang hình thành ở Việt Nam, trong bối cảnh Nhà nước Việt Nam đang dần phải chấp nhận những giá trị phổ quát về nhân sinh, nhân quyền và dân chủ của cộng đồng quốc tế. Đó cũng là lý do để có thể cho rằng đã có những tín hiệu cho thấy một số lãnh đạo của đảng và chính quyền, tuy chưa công khai biểu hiện quan điểm vì lý do chưa muốn hoặc vẫn bị áp lực bởi “chủ nghĩa kinh viện tập thể”, vẫn đang có xu hướng “xoay trục” sang phương Tây và dần chấp nhận đường hướng một mô hình xã hội dân sự nào đó trong tương lai cho Việt Nam, với vai trò nhà nước pháp quyền đang được đặt ra và có giá trị tối thiểu như một cụm từ mang tính thời thượng.

Sau chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Washington vào tháng 7/2013 và tiếp theo đó là chuyến đi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Paris và New York vào tháng 9/2013, tín hiệu về xu hướng “xoay trục” như thế ngày càng lộ diện.

Đó cũng là lý do để có thể cho rằng tỷ lệ thuận với khuynh hướng “xoay trục” sang phương Tây, một nhận thức mới mẻ đang dần hình thành trong não trạng của một số lãnh đạo cao cấp: trong tương lai gần, một lực lượng trí thức có tính độc lập tương đối với hệ tư tưởng của đảng, có thể là cần thiết được duy trì mà không bị sách nhiễu hoặc bắt bớ, với mục đích tạo nên một ráng hồng dân chủ nào đó cho khuôn mặt của chế độ, cũng là nhân tố có thể mang lại thiện cảm với các tổ chức và quốc gia trên thế giới quan tâm đến vấn đề dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở Việt Nam. Trong trường hợp cần thiết, lực lượng trí thức độc lập này cũng có thể là cầu nối trong – ngoài để một số quan chức cao cấp Việt Nam “dễ ăn dễ nói” hơn với các tổ chức quốc tế.

Tác động quốc tế và điều được xem là “biến đổi khí hậu nội địa” chính là điều kiện cần và cực kỳ quan yếu để các phong trào dân sự có thể thành hình thành khối ở Việt Nam, trong bối cảnh được coi là “nhạy cảm” hiện thời mà không quá lo lắng về chuyện thành viên của họ bị bắt bớ hay bị truy tố vì tội danh “lật đổ có tổ chức”.

RFI: Làm thế nào để các phong trào dân sự có thể được xây dựng nhanh chóng và lan tỏa được ở Việt Nam?

Khác rất nhiều với tính chuyên biệt về tư tưởng và thành phần của đảng phái chính trị, phong trào dân sự luôn là một định chế mở có tính hợp lý để có thể thu hút, quy tụ rộng rãi sự đóng góp của các thành phần, không chỉ người dân mà còn cả trí thức và các quan chức trong đảng – những người vốn đã ở thế “trung dung”, bức xúc với hiện tình dân tộc và muốn tìm một con đường nào đó để đời sống của họ đỡ vô nghĩa hơn.

Một khi được hình thành, các phong trào dân sự có thể là ngôi nhà của người nông dân, công nhân, tiểu thương, và cả giới sinh viên đang muốn tìm một lối thoát để phụng sự dân tộc. Ở nhiều nơi và vào nhiều thời điểm, xã hội đang chứng kiến hiện tượng “tụ tập đông người”, từ các bà tiểu thương đến những nhóm sinh viên và trí thức, từ các nhóm dân oan hàng ngày túc trực ở trụ sở công quyền đến những người công nhân nhóm họp đòi quyền lợi về thu nhập… Tuy nhiên tất cả những hiện tượng tổ nhóm như thế vẫn còn rất phân tán và mang tính tự phát, hoàn toàn có thể tan vỡ như bong bóng xà phòng nếu không được định hướng và duy trì sự tồn tại.

Định hướng và những mục tiêu thiết thân của xã hội dân sự cùng các phong trào của nó về dân sinh, dân quyền, dân chủ và dân trí chắc chắn là sự gắn bó không thể tách rời đối với quyền lợi của đại đa số người dân trong số 86 triệu dân số Việt Nam giờ đây. Số còn lại, dù chưa có con số thống kê chính thức, nhưng có thể chỉ chiếm 10-15%, là những người có bổng lộc thông qua phương tiện chức vụ, cùng những người giàu có mà không muốn lâm vào tình thế rủi ro để đổi lấy sự minh bạch.

Nếu đại đa số nhân dân được kết nối với nhau và được định hướng trong cuộc đấu tranh phản biện xã hội, tính lan tỏa và sức ép mà các phong trào dân sự tạo ra sẽ được nhân lên gấp nhiều lần. Ứng với những điều kiện ở Việt Nam và so sánh với kinh nghiệm đã tích lũy ở Liên Xô cũ và nhiều nước Đông Âu vào thập niên 90, nhóm trí thức phản biện độc lập có vai trò khởi phát, dẫn dắt, nhưng lực lượng trí thức trong đảng và hệ thống nhà nước mới là nhân tố quyết định để tác động đối với đảng và chính quyền, tạo ra một thay đổi đủ lớn về chính sách, con người và cả thể chế.

Ứng với tình hình Việt Nam, một số đánh giá mang tính ước đoán cho biết hiện thời có ba nhóm quan điểm chính. Nhóm thứ nhất gồm khoảng 30% trí thức trong đảng và nhà nước, bao gồm cả quan chức, được xem là nhóm “trung thành” và có quyền lợi thiết thân với chức vụ và các đặc quyền trong hệ thống. Ngược lại, nhóm thứ hai có khoảng 20% trí thức trong các cơ quan nhà nước, không phải đảng viên hoặc vẫn là đảng viên, nhưng có tư tưởng cấp tiến, muốn thay đổi, song chưa có điều kiện để thể hiện quan điểm và hành động của họ. Nằm giữa hai khuynh hướng vừa đề cập là nhóm thứ ba với khoảng 50% trí thức trong đảng và nhà nước - những người không gắn bó đặc biệt với quyền lợi và chức vụ, mang quan điểm trung dung. Nếu thực tế gần đúng với những tỷ lệ đó thì một xã hội dân sự được tổ chức tốt sẽ có thể thu hút đến ít nhất phân nửa số trí thức đang làm việc cho hệ thống của đảng và nhà nước.

Muốn xã hội dân sự được rút ngắn cung đường khởi động, yếu tố đoàn kết phải là con ngươi của phong trào phản biện, phong trào dân sự và do đó của xã hội dân sự trong tương lai ở Việt Nam. Tình trạng xa cách giữa nhóm trí thức phản biện độc lập với các trí thức trong đảng và hệ thống nhà nước như hiện thời là yếu huyệt nguy hiểm nhất trên con đường cải hóa các mục tiêu xã hội và chính trị, gây loãng tác động điều chỉnh chính sách và càng làm cho đời sống dân tình trở nên khốn khó, bức bách hơn.

Bức bách thách đố đối với những người hoạt động dân chủ ở Việt Nam lại là phải tạo ra được bầu không khí tranh luận thật sự dân chủ trong đa nguyên tư tưởng, gạt sang một bên những đố kỵ, tị hiềm, ganh ghét hoặc nói xấu lẫn nhau – những biểu hiện vẫn luôn bị coi là một thói xấu trong lịch sử văn hóa của người Việt.

Chỉ có đoàn kết mới làm tăng được sức mạnh của những người muốn thay đổi và mới tạo ra được sự đổi thay. Đoàn kết càng nhanh thì lộ trình ban đầu cho dân chủ Việt Nam sẽ càng được rút ngắn, cho dù con đường dẫn đến sự thay đổi toàn diện vẫn còn rất lâu dài.

RFI: Trong hoàn cảnh Việt Nam, các phong trào dân sự có thể làm được những gì thiết thực?

Có rất nhiều việc phải làm. Hành động chính trị - xã hội là việc lên tiếng bảo vệ chủ quyền biển đảo, hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế và chính trị Việt Nam vào Trung Quốc; phản biện chống tham nhũng và các nhóm lợi ích, nhóm thân hữu; thúc đẩy Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý; thúc đẩy tiếng nói của trí thức độc lập tại Quốc hội; thúc đẩy tính hợp hiến và hợp pháp hóa của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo; phản biện đối với các điều luật chính trị hóa hành vi phản phản biện như điều 79, 87, 88, 258 trong Bộ luật hình sự; phản biện đối với điều kiện giam giữ phạm nhân trong các trại giam; hỗ trợ tinh thần và vật chất cho các gia đình có người bị giam giữ, liên quan đến yếu tố chính trị…

Còn hành động kinh tế - xã hội là bảo vệ quyền lợi của nông dân trước hành vi trưng thu đất đai bất hợp pháp và vô lối; phản biện đối với chủ đề sở hữu trong Luật đất đai và cơ chế thu hồi đất đối với các dự án kinh tế - xã hội; bảo vệ quyền lợi của công nhân và thị dân về điều kiện làm việc và an sinh xã hội; đấu tranh chống tác động tiêu cực của một số doanh nghiệp đối với môi trường tự nhiên… Thái độ lên tiếng của phong trào dân sự cũng không thể bỏ qua việc phản biện đối với một số vấn đề kinh tế gay gắt như nợ công quốc gia; nợ và nợ xấu; tính độc quyền của kinh tế quốc doanh và một số tập đoàn; ngân hàng; các thị trường đầu cơ như vàng, bất động sản; những ngành có liên quan mật thiết đến người tiêu dùng như điện, xăng dầu, nước…
Và để tự nâng mình lên, các phong trào dân sự cũng phải phản biện với chính những tiếng nói phản biện thiếu tinh thần xây dựng và đoàn kết trong giới hoạt động dân chủ ở Việt Nam và hải ngoại.

RFI: Tuy nhiên nhiều vấn đề mà giới trí thức phản biện nêu ra cho tới nay vẫn có vẻ nặng về tính lý thuyết. Làm thế nào để có được một phong trào dân sự có hiệu quả trong đời sống?

Dĩ nhiên phong trào phản biện của giới nhân sĩ, trí thức và các phong trào dân sự phải cần thỏa mãn điều kiện đủ là làm sao hình thành càng sớm càng tốt, chọn lựa những người đứng đầu có uy tín và có năng lực hành động, đồng thời tạo dựng được nhân lực điều hành và thừa hành để có thể tương tác với vận động xã hội và thích ứng với những ưu thế mới trong tình hình mới.

Muốn đạt được các mục tiêu chiến lược đó, trước mắt hoạt động của phong trào dân sự cần nhích thêm một bước: không chỉ là diễn đàn trên mạng, mà phải hình thành các nhóm công khai trong đời sống theo phương châm ôn hòa, bất bạo động.

Ngay từ bây giờ, đang rất cần đến một sự kết nối có tính thành tâm, hữu dụng và bài bản giữa các nhóm trí thức phản biện độc lập, trí thức trong đảng với các nhóm dân sự tiêu biểu của nông dân, công nhân, tiểu thương, sinh viên, tín đồ tôn giáo trong nước, cùng khối trí thức và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài.
Cuộc hành trình của phản biện xã hội và xã hội dân sự ở Việt Nam trong ít nhất 20 năm tới không chỉ là một sự thay đổi về tương quan kinh tế - chính trị, mà còn là một cuộc cách mạng về văn hóa và dân trí cho các tầng lớp nhân dân.

Hãy đừng nghĩ xã hội dân sự phải là một cái gì đó to tát với những cuộc bàn luận bất tận về học thuật và vĩ mô. Sau khi Diễn đàn xã hội dân sự của nhóm 72 ra đời, một blogger trẻ là Phạm Lê Vương Các đã bày tỏ chút nuối tiếc: hàng trăm trí thức có tên tuổi đồng ký tên ủng hộ diễn đàn này thực ra có thể làm được một điều gì đó xứng đáng hơn là chỉ bàn luận. Trên mạng đã có quá nhiều diễn đàn, và giờ đây điều cần thiết là hành động chứ không chỉ là nói. Một hành động rất nhỏ bé như hình thành một phong trào nhặt rác ngoài đường phố có thể còn có ý nghĩa hơn cả việc ngồi bàn luận chính trị theo cung cách salon…

Nhặt rác chính là một hành động không thể thiết thực hơn trong nỗi bức bối hiện thời. Dù mới chỉ một ít người nhặt rác, song hiệu ứng lan tỏa của đám đông sẽ khiến thay đổi về nhận thức và tình cảm, để đến một lúc nào đó người dân và đảng viên sẽ ý thức về việc cần phải quét rác như thế nào.

Với tôi, chúng ta, tất cả các bạn hãy hành động, hành động và hành động! Vì dân sinh, dân quyền, dân chủ và dân trí! Thay đổi của xã hội cũng là hệ quả cho phản biện và cơ hội cho dân chủ. Phải thay đổi về não trạng để có thể cống hiến cho xã hội nhiều hơn nữa. Phong trào dân sự và những điều kiện cho một xã hội dân sự ở Việt Nam đang nằm trong xu thế và lộ trình khởi động trong 3-4 năm tới. Và nếu được tổ chức tốt, phong trào này có thể góp sức cho xã hội về những triển vọng lạc quan trong tương lai dài hạn của dân tộc.

RFI: Xin rất cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ hôm nay. 


Hùng Tâm/Người Việt - Quan hệ Mỹ-Âu


Hùng Tâm/Người Việt

Âu Châu vẫn là đồng minh, nhưng hết đặc tính chiến lược với Hoa Kỳ

Tuần này, khóa họp thường niên của Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc cho thấy một chuyện lạ. Ðó là sự phối hợp giữa Hoa Kỳ và Âu Châu hết là một trục xoay chính yếu trong quan hệ quốc tế. Nhìn cách khác, cái trục Âu-Mỹ đã từng chi phối địa cầu trong suốt thế kỷ 20 đang tuột nõ và Âu Châu trở thành “bánh xe sơ cua” của Hoa Kỳ. Ðây là biến cố rất đáng chú ý nên mới được “Hồ sơ Người Việt” tìm hiểu kỳ này.


Bối cảnh gần xa

Hai năm về trước, chính quyền Hoa Kỳ nói đến việc “chuyển trục về Ðông Á,” khu vực chiến lược cho một cường quốc Á Châu là nước Mỹ. Hoa Kỳ ngó về Ðông Á là trao lại một phần gánh nặng Trung Ðông cho đồng minh chiến lược của mình trong khu vực, là Liên Hiệp Âu Châu. Việc chuyển hướng ấy đi cùng viễn ảnh triệt thoái khỏi hai chiến trường Iraq và Afghanistan.

Nhưng việc chuyển trục chưa xảy ra.

Hoa Kỳ vẫn còn nhiều việc phải giải quyết tại Trung Ðông, như Tổng Thống Barack Obama đã nhấn mạnh trong bài diễn văn đọc trước Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc mà không nhắc tới Liên Âu, trừ một câu về hồ sơ Iran vì vai trò của nước Ðức trong hội nghị của nhóm P-5 + 1. P-5 là năm thành viên thường trực của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Ðức là thành viên thứ sáu.

Nhưng tuần qua, nước Ðức vừa có bầu cử và Thủ Tướng Angela Merkel sẽ phải tìm ra liên minh cầm quyền bổ sung cho đảng CDU/CSU của bà. Ưu tiên của cường quốc kinh tế số một tại Âu Châu là giải quyết những vấn đề của nước Ðức và của khối Euro, hơn là chia sẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ về thiên hạ sự, hay ít nhất về an ninh của các nước Bắc Ðại Tây Dương như trong thời Chiến Tranh Lạnh. Chẳng những vậy, Ðức hoàn toàn đứng bên lề và còn đối lập với Pháp trong các hồ sơ Mali, Libya và Syria.

Là cường quốc quân sự số một của Liên Âu, Pháp lại có mối quan tâm khác.

Trước và sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, Pháp phải duyệt lại vai trò quân sự của mình, qua bốn Bạch thư về Quốc phòng (1972, 1994, 2008 và mới nhất, vào Tháng Ba vừa qua). Nước Pháp có thấy ra trách nhiệm của mình trong “Vành Bất Ổn,” Arc d'Instabilité, kéo dài từ miền Nam biển Ðịa Trung Hải qua tới Ấn Ðộ Dương. Trong ý hướng đó, nước Pháp có thể chia sẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ.

Nhưng mà lực bất tòng tâm. Khó khăn kinh tế nói chung đã khiến cả Liên Âu đều tiết giảm ngân sách quốc phòng, kể cả nước Pháp. Và kinh nghiệm từ hai lần ra quân để can thiệp vào Libya rồi Mali hồi đầu năm nay, cho thấy rằng Anh, Pháp, Ý đều cần tới sự yểm trợ quân sự của Hoa Kỳ.

Ngày xưa, thời Charles de Gaulle, Pháp có tham vọng là sức mạnh quân sự cân bằng cái thế đối lập Ðông-Tây, giữa Liên Bang Xô Viết và Hoa Kỳ. Ngày nay, Pháp chỉ còn phải lo cho “ao nhà,” và các thuộc địa cũ trong vùng Tây phi, Bắc Phi và Trung Ðông, mà đã thấm mệt như nhiều nước Âu Châu khác.

Vụ khủng hoảng vừa qua tại Syria càng cho thấy vai trò rất giới hạn của Âu Châu khi phải kê vai với nước Mỹ. Chúng ta nên nhìn thêm vào bối cảnh nóng hổi này.

Ðã đành rằng chính quyền Obama có sự vụng về lúng túng khi muốn dọa già rồi lại non tay với chế độ độc tài Bashar al-Assad tại Syria. Nhưng ngay từ đầu, Hoa Kỳ đã muốn tránh can thiệp vào xứ này, một thuộc địa cũ của Pháp trong toàn cảnh dàn dựng bất thường của các nước Âu Châu từ sau Thế Chiến I. Y như tại Libya hai năm về trước, khi nội chiến Syria kéo dài thì chính các đồng minh của Mỹ đã muốn Hoa Kỳ ra tay. Dẫn đầu là Anh, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ. Thế rồi khi chế độ Assad vẫn vượt làn ranh đỏ của Obama, Quốc Hội Anh đã cột tay thủ tướng, trong khi Thổ lại đòi một điều bất khả cho Obama là phải mạnh tay hơn tại Syria.

Kết cuộc thì Mỹ đành bán cái cho Liên Bang Nga qua một giải pháp tượng trưng khó có hiệu lực.

Ðấy cũng là lúc Nhật Bản, một đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ, bắn tiếng là sẽ góp sức cho bài toán Syria. Chẳng những chính quyền Nhật hứa viện trợ cho một nước Syria ổn định mà còn có thể cung cấp kinh nghiệm giải trừ võ khí hóa học: Nhật từng bị một giáo phái điên khùng tấn công bằng chất độc sarin. Dù chỉ là một sự lên tiếng tượng trưng, chưa chắc đã được quần chúng ở nhà ủng hộ, việc Nhật Bản khẳng định sự đóng góp của mình bên cạnh Hoa Kỳ trong một bài toán quốc tế cho thấy sự vắng mặt của Âu Châu.
Nguyện ước Âu Châu

Ðã từng chi phối cả thế giới trong 500 năm, từ Kha Luân Bố năm 1492 cho tới khi Liên Xô tan rã năm 1991, lục địa Âu Châu từng là chiến trường nóng trong nhiều thế kỷ. Âu Châu như ta thấy ngày nay là kết quả của ba cuộc chiến Pháp-Ðức (1870, 1914 và 1939) khiến hai cường quốc lân bang này phải hợp tác, trước tiên và dễ nhất là về mặt kinh tế. Sau khi Liên Xô tan rã thì Liên Âu thành hình.

Nhưng về căn bản thì đây là khu vực tự do mậu dịch, bên trong có một hệ thống tiền tệ thống nhất là khối Euro. Tự do mậu dịch trong khu vực là dị biệt và kỳ thị các nước nằm ngoài khu vực. Thống nhất tiền tệ cũng có nghĩa là loại trừ các nước trong Liên Âu mà ngoài khối Euro. Liên Âu cũng có Quốc Hội thống nhất, nhưng vẫn giữ lại chủ quyền về ngoại giao và an ninh cho 28 thành viên. Vì vậy, ngoài yếu tố địa dư là miền Tây của đại lục Âu Á, bên trong có quá nhiều khác biệt, Liên Âu còn có khác biệt lớn hơn nữa về nguyện ước và tầm nhìn.

Về nguyện ước thịnh vượng thì vụ khủng hoảng Euro đã qua năm thứ năm mà chưa ngã ngũ.

Về tầm nhìn thì Liên Âu không chỉ phân vân mà còn đẩy Minh ước NATO qua ba hướng. Các thành viên NATO ở phía Bắc thì vẫn gắn bó với tinh thần Bắc Ðại Tây Dương nguyên thủy, và gần với Hoa Kỳ. Các nước phía Nam thì muốn có thế độc lập hơn với Hoa Kỳ, thân hữu hơn với Liên bang Nga và khối Hồi giáo, nhất là trong vụ Palestine. Các nước Ðông Âu thì e ngại Ðế quốc Nga từ tiền kiếp và muốn NATO vẫn là lá chắn bảo vệ. Và dù Pháp có tham vọng xây dựng một lực lượng quân sự riêng cho Âu Châu, với vai trò an ninh trên Ðịa Trung Hải, Âu Châu vẫn chưa thể bảo vệ được quyền lợi của mình ở vòng ngoại vi, nếu không có sự góp sức của Hoa Kỳ.

Chẳng những vậy, lãnh đạo và quần chúng Âu Châu nói chung thường có cái nhìn khá bạc bẽo về nước Mỹ.

Với Âu Châu, Hoa Kỳ là cường quốc nông nổi thiếu chiều sâu văn hóa và chẳng mấy am hiểu về lịch sử. Lãnh đạo Hoa Kỳ thường có hai loại. Khờ khạo thì có Jimmy Carter hay cả Ronald Reagan, một diễn viên hạng B. Hung hăng cao bồi thì có Lyndon Johnson hay George W. Bush, ngẫu nhiên đều xuất thân từ Texas! Ít ai có vẻ trí thức và uyên bác như John F. Kennedy.

Barack Obama là một ngoại lệ. Cũng có dáng trí thức, lại hiếu hòa hơn Bush, ông Tổng thống này được Âu Châu sùng bái vì có thể nhường sân chơi cho lãnh đạo Âu Châu, hoặc ít ra thì cũng biết tham khảo ý kiến. Nhờ vậy mà ba nước Âu Châu là Anh Pháp Ý đã dẫn dụ được tổng thống Mỹ can thiệp vào Libya. Nhưng rồi chuyện Syria lại vỡ lở!

Các nước Âu Châu như Anh Pháp đều ráo riết vận động Hoa Kỳ can thiệp từ năm ngoái, khi võ khí hóa học đã lần đầu xuất hiện vào Tháng Tám. Nhưng đến khi hữu sự, nước Mỹ và ông Obama lại chơ vơ đứng giữa, một mình, với sự hoài nghi của dân Mỹ. Nếu vẫn dấn tới và ra quân mà khỏi cần xin phép Quốc Hội, Obama sẽ được Âu Châu cho đứng cạnh Bush, với cái mũ cao bồi. Ðã chẳng dấn tới để giải quyết chuyện Syria theo quan điểm về quyền lợi của Âu Châu, tổng thống Mỹ lại còn chụp lấy cái sào của Vladimir Putin nên bị coi là kẻ khờ khạo yếu đuối chẳng kém gì Jimmy Carter!

Trong khi ấy, từng nước hay từng nhóm Âu Châu cũng lại có ý khác về Hoa Kỳ. Nhiều quốc gia thì theo dõi việc ai sẽ lên làm thống đốc Ngân Hàng Trung Ương vì điều ấy liên quan đến ưu tư kinh tế và đầu tư của họ. Thí dụ chính là Anh quốc. 

Các nước Ðông Âu thì thất vọng vì Mỹ đã mất tư thế và lại còn hợp tác với Liên Bang Nga. Các nước Trung Âu dưới tầm nhắm của Putin thì cho rằng lãnh đạo Mỹ chưa ý thức được trận chiến âm thầm dai dẳng giữa Nga và Mỹ.

Quan điểm Hoa Kỳ

Trong khi lãnh đạo Âu Châu thiếu một cái nhìn thống nhất về Liên Âu và về Hoa Kỳ, siêu cường độc bá là nước Mỹ cũng hết coi Âu Châu là có tầm chiến lược đáng quan tâm.

Từ khi Liên Xô tan rã và Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, Hoa Kỳ chú trọng đến hồ sơ Hồi Giáo, khởi sự từ chiến dịch tấn công Iraq trong cơn hấp hối của Liên Xô vào năm 1991. Hoa Kỳ cũng có can thiệp vào Âu Châu, trong khu vực Balkan, khi Liên Bang Nam Tư tan rã, nhưng dưới lá cờ NATO và cũng là để cứu dân Hồi Giáo khi Liên Âu bất lực. Sau đó là vụ khủng bố 9-11 và hai chiến dịch Afghanistan cùng Iraq, lồng trong trận chiến chống khủng bố Hồi giáo chạy dài từ Bắc Phi qua Sừng Phi Châu đến Ðông Nam Á.

Mười năm sau, khi chuyện Hồi Giáo có hy vọng giảm bớt căng thẳng, Hoa Kỳ nói đến việc chuyển trục về Ðông Á.

Còn lại, với Mỹ, Âu Châu là lục địa gây ra chiến tranh, để lại những di sản khét lẹt mà nước Mỹ đã nhận lãnh và phải giải quyết. Trong phạm vi đó, Âu Châu là nơi thường xuyên đưa ra tiếng nói về những gì nhân loại nên làm trên thế giới, kể cả quyền can thiệp để cứu người lâm nạn.

Nhưng khi phải làm thì Âu Châu lùi về vai giám trận để Hoa Kỳ bước ra tuyến đầu. Nếu Mỹ thắng thì đấy là sự chiến thắng của đạo lý Âu Châu. Nếu thua thì đấy là do Hoa Kỳ hung hăng can thiệp mà chẳng biết tính toán trước sau, chỉ vì nước Mỹ có ký ức rất mỏng về lịch sử!

Với Hoa Kỳ, Âu Châu là cô nhân tình về già, đã hết nhan sắc mà lại ưa dạy dỗ cằn nhằn rằng chàng tuổi trẻ này khờ quá hay hung quá. Không những vậy, cô nhân tình này lại biết nói năm sáu thứ tiếng khác nhau, chàng trai trẻ Hoa Kỳ thì chỉ nói được tiếng Anh. Hoa Kỳ vẫn duy trì tình và nghĩa với Âu Châu, nhưng biết rằng khi hữu sự, kể cả lúc phải làm “sen đầm quốc tế,” thì vẫn đi một mình, đằng sau là sự càm ràm của Âu Châu. Một sự càm ràm vô hại.

Kết luận ở đây là gì?

Âu Châu là một tập thể văn hóa đa diện và rất đẹp cho thời bình và chỉ muốn thanh bình cho mình, để duy trì nếp sống phong phú của mình. Thời Âu Châu thống trị thế giới đã hết vì muốn thống trị thì còn phải có sức.

Khác với Âu Châu, Hoa Kỳ là quốc gia thống nhất về ngôn ngữ, tiền tệ, an ninh, chính trị và ngoại giao. Khi phải quyết định từ lãi suất đến việc động binh, nước Mỹ khỏi cần xin phép một quốc gia nào khác, hay một hệ thống kinh tế như Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu hay một cơ chế siêu quốc gia mà thật ra bất lực như thủ đô Brussel của Liên Âu. Vì vậy, nước Mỹ là lãnh đạo cô đơn, rất biết rằng Âu Châu coi thường mình, nhưng cũng chẳng quan tâm đến chuyện đó.

Cái bánh xe sơ cua của Mỹ ở bên kia đại dương là vật trang trí, và thế liên kết Bắc Ðại Tây Dương đã cáo chung từ lâu!


Minh Anh - Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường


Minh Anh
(RFI)

Tại Việt Nam, một số trí thức trẻ bắt đầu quan tâm đến vấn đề môi trường, mà ví dụ minh chứng là một làn sóng nhỏ đang nổi lên phản đối dự án xây đập thủy điện tại Cát Tiên. Đối với tác giả bài viết trên tờ The New York Times, được tuần san Courrier International trích dịch lại qua hàng tựa “Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường ”, sự việc cho thấy có thay đổi dần dần trong tâm thức người dân ở một đất nước quá quen thuộc với quan niệm « Cha chung không ai khóc ».

Vườn Quốc gia Cát Tiên - Vyacheslav Stepanyuchenko/Wikipedia

Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường

« Vì lợi ích mười năm, phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm, phải trồng người ». Đây là câu châm ngôn rất phổ biến của Hồ Chí Minh, xuất hiện tại hầu hết các lớp học ở Việt Nam. Thế nhưng, ngày càng có nhiều trí thức trong nước bắt đầu tự vấn phải chăng là vế đầu của câu châm ngôn đó đã không được quan tâm đúng mức. 

Như ý thức được vấn đề đó, một số trí thức trẻ bắt đầu quan tâm đến vấn đề môi trường, mà ví dụ minh chứng là một làn sóng nhỏ đang nổi lên phản đối dự án xây đập thủy điện tại Cát Tiên. Đối với tác giả bài viết trên tờ The New York Times, được tuần san Courrier International trích dịch lại qua hàng tựa “Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường ”, sự việc cho thấy có thay đổi dần dần trong tâm thức người dân ở một đất nước cộng sản quá quen thuộc với quan niệm là « Cha chung không ai khóc ».

Tác giả ký tên Liên Hoàng (một nữ ký giả và là nhà văn Việt Nam sinh sống tại New York) cho biết vừa qua tại Việt Nam, hơn 4700 người đã ký vào một bản kiến nghị trên trang mạng change.org, đề nghị chính phủ Việt Nam ngăn cấm dự án xây dựng hai đập thuỷ điện do tập đoàn Đức Long Gia Lai làm chủ đầu tư.

Vấn đề ở chỗ là để thực hiện dự án trên, tập đoàn này phải cho san bằng khoảng 400 ha đất rừng thuộc khuôn viên vườn quốc gia Cát Tiên, cách thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía đông bắc. Đây lại là một khu bảo tồn thiên nhiên có hệ sinh thái đa dạng nhất tại Việt Nam, nơi trú ngụ nhiều loài sinh vật quý hiếm như các loại lan rừng và gấu mã lai.

Từ năm 2006, nhà nước Việt Nam đã vận động để UNESCO xếp khu vực này vào danh mục Di sản Thế giới. Những người phản đối còn gởi một thư ngỏ lên chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Phong trào phản đối còn nhận được sự ủng hộ từ nhiều chính quyền địa phương cũng như báo giới trong nước.

Xét từ bên ngoài, sự việc cũng có vẻ rất tầm thường : Một doanh nghiệp lớn đe dọa nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nhà bảo vệ môi sinh phản đối, và chính phủ phải chọn lựa giữa lợi nhuận và bảo vệ môi trường. Hơn nữa, người Việt Nam còn có một đặc tính khá đặc biệt, họ chỉ phàn nàn về các vấn đề môi trường nếu có đụng chạm đến quyền lợi của mình.

Cuộc chiến bảo vệ rừng Cát Tiên khác hẳn trước đây 

Thế nhưng, sự việc lần này mang một sắc thái khác hẳn hoàn toàn. Cuộc chiến bảo vệ rừng Cát Tiên ít mang tính chất thực dụng, hướng đến tương lai nhiều hơn : Đó là bảo vệ đa dạng sinh thái. Đối với tác giả, cuộc chiến đấu này đánh dấu một bước ngoặc mới về bản chất của sự đấu tranh dân sự. Đối với họ, dù có thất bại hay không, điều đó không quan trọng. Vấn đề là người dân quan tâm nhiều đến vấn đề phát triển môi trường bền vững, theo như quan điểm của anh Nguyễn Huỳnh Thuật, một trong những người đứng đầu phong trào phản đối.

Cũng theo anh Thuật, cần phải đưa lại khái niệm trách nhiệm tập thể. Người Việt có thói quen giữ nhà cửa rất ngăn nắp sạch sẽ, nhưng lại xem nhẹ vệ sinh nơi công cộng như vứt rác bừa bãi hay tiểu tiện bậy trên hè phố. Đó cũng là do bởi quan niệm « cha chung không ai khóc ».

Tình trạng này đang được dần cải thiện. Ngày nay, giới trẻ có điều kiện đi du học nước ngoài và ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi những điều kiện sống ở các nước tân tiến. Nếu như trước đây, đối với người dân trong nước, bàn về các vấn đề môi trường là một sự xa xỉ do bởi cuộc sống còn quá nghèo nàn, giờ đây đã đổi khác. Ngày càng có nhiều người khá giả hơn. Do vậy, ngày càng có nhiều người cảm thấy có trách nhiệm với môi trường và xã hội, theo như giải thích của anh Bùi Việt Hà, một cựu du học sinh. Bài viết kết luận, như vậy là sẽ ngày càng có nhiều người Việt Nam từ từ bắt đầu khóc cho cha chung rồi phải không ?

Tương lai kinh tế nào cho Trung Quốc, sau phiên xử Bạc Hy Lai ?

Đến với Trung Quốc, Courrier International chú ý đến hai lãnh vực chính : Kinh tế và chính trị. Tờ báo trích đăng lại hai bài viết trên tờ South China Morning Post của Hồng Kông và Kinh tế quan sát báo tại Bắc Kinh cho rằng đất nước cần tiến hành nhanh chóng các cải cách về kinh tế và chính trị.

South China Morning Post đặt câu hỏi « Bạc Hy Lai bị kết án, và sau đó thì sao ? ». Sự sụp đổ ngoạn mục của cựu bí thư Trùng Khánh đã làm lộ rõ sự rạn nứt ngay trong lòng bộ máy cầm quyền và phản ảnh rõ sự thất bại của mô hình kinh tế chỉ huy theo chủ nghĩa Mao, đặt ra nhiều thách thức lớn cho dàn lãnh đạo mới. Dĩ nhiên, bản án dành cho Bạc Hy Lai đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị của ông ta, nhưng vẫn còn tồn đọng lại nhiều câu hỏi không lời giải đáp.

Một mặt việc đưa ra xét xử công khai và kết án tù chung thân ông Bạc Hy Lai cho thấy bầu không khí chính trị tại Trung Quốc đang diễn ra rất căng thẳng. Thông qua việc kết án cựu bí thư Trùng Khánh, dàn lãnh đạo mới đương nhiên muốn chứng tỏ quyết tâm chống tham nhũng mà đối tượng điều tra kế tiếp đang bị nhắm đến là ông Chu Vĩnh Khang, cựu bộ trưởng Bộ công an đầy quyền lực và cũng là người đỡ đầu cho vị « hoàng tử đỏ » thất sủng. Đây cũng là lần đầu tiên một uỷ viên trong Ban Thường vụ (dù là đã về hưu hay còn tại chức) trở thành đối tượng điều tra về một tội kinh tế.

Mặt khác, sự việc cũng phản ảnh phần nào tương lai Trung Quốc đang bị đe dọa. Ngoài việc mong muốn nhanh chóng dập tắt vụ án trước kỳ Đại hội toàn thể lần 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, sắp diễn ra vào tháng 11 năm nay, nhiều định hướng kinh tế cần phải được quyết định nhanh chóng. Trung Quốc giờ đây đứng trước ngã ba đường : hoặc là tiếp tục công cuộc cải cách, thông qua việc giảm bớt vai trò của Nhà nước, hướng đến một nền kinh tế thị trường thật thụ và một Nhà nước pháp quyền. Hoặc là Trung Quốc khẳng định cam kết của mình vào một Nhà nước vững mạnh cùng với sự phát triển của một nền chủ nghĩa tư bản Nhà nước.

Trung Quốc cần khẩn trương cải tổ doanh nghiệp nhà nước

Về điểm này, tờ Kinh tế quan sát báo tại Bắc Kinh cũng có cùng quan điểm cho rằng « Cần khẩn trương cải tổ doanh nghiệp nhà nước ». Tờ báo cho rằng phải đợi đến kỳ Đại hội toàn thể lần ba của Ban chấp hành Trung ương sắp đến, người ta sẽ biết rõ hơn những hướng cải cách doanh nghiệp Nhà nước, cũng như việc khẳng định mở cửa cạnh tranh cho các doanh nghiệp này, cho đến giờ vẫn giữ vị thế độc tôn.

Theo tờ báo, Uỷ ban Giám sát và Quản lý tài sản công (Sasac), được thành lập cách đây 10 năm, và nắm trong tay nhiều khối tài sản lớn, với tổng trị giá ước tính lên đến 30 ngàn tỷ nhân dân tệ, đang hồi hộp đón chờ vị lãnh đạo mới. Giới chuyên gia kinh tế trong nước cho rằng, bất luận người kế nhiệm là ai, điều quan trọng là chính phủ đang nhắm đến những cải cách sắp tới nào để tiến hành.

Hầu hết các chuyên gia đều có chung một nhận định : công cuộc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước không thể chờ đợi lâu hơn được nữa, vì các doanh nghiệp này hiện đang trong tình trạng nguy hiểm. Các con số đưa ra cho thấy lợi nhuận có vẻ tăng lên, lại là những con số ảo. Trong bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc và thế giới đang rơi vào tình trạng trì trệ, các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu có dấu hiệu hụt hơi và nhiều hồi chuông báo động đã được gióng lên.

Tờ báo trích dẫn số liệu do Hiệp hội ngành công nghiệp luyện gang thép đưa ra cho biết, tổng dư nợ của 86 doanh nghiệp lớn và vừa trong lãnh vực này vào cuối tháng Sáu năm nay đã vượt quá con số 3000 tỷ nhân dân tệ, với mức tỷ lệ nợ trung bình là 69,74%. Không chỉ riêng trong ngành luyện gang thép, một số ngành trọng điểm khác cũng rơi vào tình trạng đáng báo động.

Theo phân tích của tờ báo, ngoài tình hình tài chính thế giới suy thoái, ngay chính bản thân các doanh nghiệp quốc doanh cũng có nhiều vấn đề trong cách vận hành : Phát triển không cân đối, Tăng trưởng quá mức, Hệ thống quản lý chưa hoàn thiện, Quản lý thiếu tinh tế, Khả năng sinh lợi kém và Sự kế thừa lịch sử quá nặng nề. Ít ra là những gì chính Ủy ban Giám sát và Quản lý tài sản công tự đánh giá. Đó là chưa kể đến khả năng cạnh tranh trên quốc tế của các doanh nghiệp nhà nước.

Do đó, các nhà phân tích mong rằng người kế nhiệm sắp tới của cơ quan đầy quyền lực này sẽ là một người chủ trương cải cách chứ không chỉ là một quan chức cao cấp mà thôi.

Iran : Một sự cởi mở giả tạo ?

Nhìn sang Trung Đông, những ngày gần đây, Iran liên tục có những động thái cởi mở với các cường quốc phương Tây, nhất là trên hồ sơ hạt nhân. Thế nhưng, báo chí phương Tây và Iran lại có những góc nhìn khác nhau về sự việc. Courrier International trích đăng lại các nhận định của tờ nhật báo The Daily Telegraph ở Luân Đôn và nhật báo chủ trương cải cách Etemaad tại Teheran.

Bài viết trên tờ The Daily Telegraph tại Luân Đôn được Courrier International đăng lại dưới hàng tựa « Iran : một sự cởi mở giả tạo », cho rằng Tổng thống Hassan Rohani đang tiến hành một chiến dịch truyền thông nhằm đạt được việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt kinh tế nhắm vào đất nước nhưng lại không có chút nhượng bộ rõ rệt thật sự nào.

Hơn bao giờ hết, khi tổng thống Mỹ Obama nói đến « lằn ranh đỏ » trong việc Syria sử dụng vũ khí hoá học, không một quốc gia xứng đáng có nhiều « lằn ranh đỏ » hơn là Iran. Bài viết tự hỏi là nếu Teheran khẳng định không có chút ý đồ xây dựng kho vũ khí hạt nhân, thì tại sao vẫn tiếp tục làm giàu chất uranium đồng thời phát triển hệ thống tên lửa được thiết kế để gắn các đầu đạn hạt nhân ?

The Daily Telegrraph lưu ý đây không phải là lần đầu tiên Iran tiến trước một bước nhằm cải thiện mối quan hệ, để rồi sau đó lại ngầm phá hoại những nỗ lực đó bằng cách từ chối thỏa hiệp về chương trình hạt nhân của mình.

Việc Giáo chủ Ali Khamenei, thông qua một kênh giao tiếp khá bất ngờ là Twitter để khẳng định thiện chí của Iran sẵn sàng thoả hiệp, cũng không xua tan được nỗi ngờ vực của các nhà lãnh đạo phương Tây về động cơ thật sự của quốc gia Hồi giáo này.

Đối với The Daily Telegrah, Tổng thống và lãnh đạo tối cao nhận thức được rằng các lệnh trừng phạt của quốc tế lên đất nước đang phát sinh ra nhiều vấn đề kinh tế và xã hội. Đây rõ ràng là một mối nguy lớn cần phải tránh vì nó có thể làm trỗi dậy một làn sóng biểu tình phản đối chính phủ rầm rộ làm lung lay chế độ như là cuộc cách mạng xanh đã từng làm cách đây bốn năm.

Iran thoát khỏi sự cô lập !

Đối với nhật báo chủ trương cải cách Etemaad tại Teheran « Cuối cùng chúng ta cũng thoát ra khỏi sự cô lập ! ». Các cuộc trao đổi thân mật giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và đồng nhiệm Iran Hassan Rohani, thông điệp chúc mừng năm mới của Tổng thống và Ngoại trưởng Iran đến cộng đồng Do Thái, việc trả tự do cho một số tù nhân chính trị hàng đầu, và tuyên bố mới đây của ông Rohani khẳng định ông có toàn quyền để thương lượng về hồ sơ hạt nhân… đã tạo ra một cảm giác hy vọng mạnh mẽ và đầy khách quan.

Sở dĩ Tổng thống mới đắc cử Rohani có thể đưa ra những cử chỉ cởi mở ôn hòa như vậy là vì nhiều yếu tố khách quan « thiên thời, địa lợi » ủng hộ ông. Thứ nhất, ông Rohani dường như đã chiếm được niềm tin và sự ủng hộ của nhiều vị quan chức (chủ yếu là phe bảo thủ trong nước).

Thứ hai, tình hình tại Trung Đông đã có nhiều tiến triển (nhất là cuộc chiến tại Irak và Afghanistan) đã làm cho các cường quốc phương Tây thay đổi cách nhìn. Các lệnh trừng phạt nặng nhất cũng đã được áp đặt lên đất nước này, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế và đời sống thường nhật của người dân, nhưng cũng không thể nào khiến quốc gia Hồi giáo này từ bỏ chương trình hạt nhân. 

Phương Tây đã hiểu rằng hành động yêu sách đơn phương đối với Iran để rồi áp đặt các lệnh trừng phạt đã không cho một kết quả. Thậm chí còn khiến cho nhiều trí thức phương Tây cảm thấy bất bình, lên tiếng phản đối chính phủ của họ cho rằng các lệnh trừng phạt này là vô đạo đức, vô nhân đạo và không thể nào bào chữa được.

Cuối cùng, tờ báo còn nhận định rằng ý định can thiệp quân sự vào Iran sẽ là một điều không thể. Cuộc nội chiến tại Syria kéo dài hơn hai năm qua, đương nhiên đã làm suy yếu phần nào nhà lãnh đạo độc tài Bachar al-Assad, vậy mà phương Tây còn không thể tiến hành được. Huống chi là can thiệp quân sự vào Iran sẽ còn phức tạp hơn. Vì vậy, đối với tờ Etemaad, lời đe dọa của ông Obama « giải pháp quân sự vẫn luôn để trên bàn » chỉ là một hành động chính trị và ngoại giao hơn là một lời đe dọa thật sự.

Tờ báo nhìn nhận là dù các lệnh trừng phạt đã không thể nào làm Iran khuất phục nhưng người dân và nền kinh tế đất nước lại phải trả một cái giá quá đắt. Do đó, tờ báo cho rằngg người dân Iran cũng như phương Tây phải cùng nhau thoát ra khỏi ngõ cụt này.

Kenya : chiến tranh đang lan đến cả Nairobi

Trở lại với vụ tấn công khủng bố và bắt cóc con tin đẫm máu diễn ra tại trung tâm thương mại Westgate, ở Nairobi, Kenya hôm 21/9 vừa qua, ba tuần san Pháp Courrier International, Le Nouvel Observateur và L’Express có các bài nhận định và phân tích nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành động khủng bố tàn bạo này của các phe Hồi giáo cực đoan Shebab.

Courrier International đăng dịch lại một bài viết trên tờ Daily Maverick ở Johannesburg, Nam Phi cho rằng « Kenya. Chiến tranh đang lan đến Nairobi ». Theo bài viết, Kenya đã trả giá đắt cho chính hành động đơn phương quyết định can thiệp quân sự vào Somalia của mình. Một quan điểm cũng được tuần san Le Nouvel Observateur đồng chia sẻ trong bài viết đề tựa « Tại sao lực lượng shebab tấn công Kenya ? ».

Đối với hai tạp chí, hành động can thiệp đó chỉ coi trọng việc loại trừ phe Hồi giáo cực đoan Shebab và thiết lập một quốc gia đệm mà bỏ qua chuyện tái thiết sự bình ổn của khu vực. Và lẽ đương nhiên là quốc gia đệm đó đã không thể nào ngăn chặn được sự bất ổn đang lan đến vùng biên giới và đe dọa ngành đánh cá và du lịch, hai ngành công nghiệp chủ chốt của Kenya.

Và chuyện gì phải đến cũng đã đến. Chính sự thiếu vắng một chính phủ hiệu quả, nên nạn cướp biển cũng như là các vụ bắt cóc đòi tiền chuộc nở rộ tại Somalia. Tuy nhiên, do có lẽ nguồn thu từ các hoạt động phi nhân đạo này cũng quá thấp nên các phe Hồi giáo cực đoan bắt đầu nhắm đến các đích xa hơn để có tiền hoạt động. Và đương nhiên là các điểm du lịch của Kenya, nơi luôi tới thường xuyên của giới giàu có phương Tây trở thành mục tiêu lý tưởng (để bắt cóc đòi tiền chuộc).

Về phần mình, L’Express lại nhìn sự việc dưới một góc độ dân số học. Mở đầu bài viết, tác giả tự hỏi « Ai có thể tin rằng chúng ta đã chấm dứt với Al-Qaida ? ». Vụ tấn công khủng bố khu trung tâm thương mại buộc chúng ta phải chú ý nhiều hơn nữa đến ổ của phe Hồi giáo cực đoan Djihad tại vùng Đông Phi này.

Nhìn sơ qua tình hình phát triển dân số tại Đông Phi, ta có thể nhận thấy là dù là chiếm thiểu số tại khu vực này, cộng đồng Hồi giáo đang tăng trưởng mạnh mẽ ngay tại châu lục đen từ những năm 1990. Ví dụ như tại Kenya, hàng ngàn người thuộc sắc tộc Massai đã cải theo đạo Hồi và nhiều nhân vật Hồi giáo nắm giữ các chức vụ quan trọng trong suốt hai mươi năm lại đây. Tác giả bài viết lưu ý là, mức tăng này còn mạnh hơn nhiều tại vùng châu Phi hạ Sahara : Tại đây có từ 200 cho đến 250 triệu người Hồi giáo, so với 50 triệu người vào giữa những năm 1960, tức tăng từ 4-5 lần trong vòng năm mươi năm.

Nhìn chung, số người theo đạo Hồi sinh sống tại vùng hạ Sahara chiếm đến 1/5 cộng đồng Hồi giáo trên toàn thế giới. Và Nigeria với 77 triệu tín đồ, trở thành quốc gia Hồi giáo lớn thứ Năm trên thế giới.

Tác giả bài viết dùng cụm từ « thị trường tín ngưỡng » để ám chỉ rằng khu vực này đang trở thành vùng đất đầy hứa hẹn cho các nhà truyền giáo mới của nhiều trường phái khác nhau đến từ các quốc gia vùng Vịnh và Iran. Và dĩ nhiên phe Hồi giáo cực đoan Djihad cũng không bỏ qua cơ hội để mở rộng tầm ảnh hưởng, bằng cách lợi dụng sự đói nghèo triền miên và những cuộc xung đột sắc tộc.

Cần sa sắp được bán tự do tại một số quốc gia châu Mỹ La Tinh

« Sức khỏe » cũng là đề tài được ba tờ tuần san Courrier International, L’Express và Le Nouvel Observateur chú ý đến. « Sắp được bán tự do » là tựa đề bài viết trên Courrier International. Ở đây, tờ báo muốn đề cập đến việc cần sa, một loại chất gây nghiện sẽ không còn bị cấm đoán nữa. 

Một số bang tại Hoa Kỳ như Colorado và Washington đã thông qua việc chấm dứt lệnh cấm. Hay như tại quốc gia châu Mỹ La Tinh bé nhỏ Uruguay cũng vậy. Không những, sự tiêu thụ không còn bị trừng phạt, vốn đã có hiệu lực tại nhiều quốc gia, mà chính quyền các bang tại Hoa Kỳ và một số nước còn hợp pháp hóa việc sản xuất và phân phối chất gây nghiện này. Courrier International nhận xét, ngoài danh nghĩa vì sức khỏe cộng đồng và chống lại nạn buôn lậu và bạo lực lan tràn, việc dỡ bỏ lệnh cấm này còn vì cần sa là một thị trường tiêu thụ béo bở, khiến giới kinh doanh ai cũng thèm muốn.

« Thuốc giả, hiểm họa thật »

L’Express thì làm một tài liệu về nạn thuốc tây y giả mạo qua bài viết đề tựa « Thuốc giả, hiểm họa thật ». Tờ báo đăng bức ảnh chụp các nhân viên mặt đồ bảo hộ đeo mặt nạ đứng trước một đống thuốc tây, với hàng chú thích « Trung Quốc là quốc gia xuất xứ chính của hàng dược phẩm nhái. Ở đây, một chiến dịch tiêu hủy thuốc giả, tại Bắc Kinh vào tháng Ba ».

Theo tờ báo, lợi nhuận đạt được từ nạn làm giả, làm nhái thuốc tây y cao gấp 10 lần so với nạn tiền giả, và 20 lần đối với buôn thuốc phiện. Chỉ riêng trong giai đoạn 2005-2010, thị trường thuốc giả đã tăng lên gấp đôi, đạt mức doanh thu là 75 tỷ đô-la trên toàn cầu. Trong khi đó, ngành dược phẩm thực thụ chỉ tăng được có 35% trong cùng giai đoạn. Đây là những con số từ một bản báo cáo đầy đủ do Viện nghiên cứu chống hàng dược giả (IRACM), mà tuần san có trong tay một bản sao.

Điều tra này phô bày tính chất hỗn hợp không thể tả được của một dạng tội phạm mới, những kẻ ngồi bàn giấy « mà động cơ chính là vì kinh tế, chứ không vì mục đích chính trị ». Tờ báo điểm lại những kiểu buôn lậu hàng thuốc giả : Trên mạng Internet tại Pháp, thông qua các phòng chế biến do các nhóm khủng bố tài trợ, sản xuất thủ công tại Palestin cho đến quy mô công nghiệp tại Trung Quốc.

Não bộ chỉ trường tồn vĩnh hằng … nếu như được ta sử dụng 

Và cuối cùng, Le Nouvel Observateur mang đến niềm vui cho các bậc lão thành nào có nguy cơ bị mắc bệnh mất trí nhớ. Tờ báo đăng một kết quả nghiên cứu của trường đại học California cho hay việc chơi thường xuyên một trò chơi điện tử không gian ba chiều kích thích tính đàn hồi não bộ ở người già và giúp cải thiện trí nhớ của họ.

Nghiên cứu chưa từng có này được đăng trên tạp chí Anh quốc « Nature ». Nghiên cứu đơn giản, thực tế và dễ đánh giá này được thực hiện ở 174 người từ độ tuổi 20 cho đến 79. Để đánh giá khả năng phân tích thông tin và tập trung chú ý để ghi nhớ những sự việc có tính chất thường trực, các nhà khoa học đã yêu cầu những người tham gia trò chơi phải thực hiện nhiều phần việc cùng một lúc : lái xe ô tô trên một con đường khúc khuỷu bằng cách bấm phím bằng ngón cái bên trái, giám sát các biển giao thông hay các chướng ngại vật xuất hiện trên màn hình và báo động chúng bằng cách kích hoạt phím bấm bằng tay phải. Qua quan sát, các nhà khoa học rút ra kết luận là khả năng đa chức năng của não bộ suy giảm dần với tuổi thọ.

Thế nhưng, trong nhóm nghiên cứu những người không quen chơi điện tử có độ tuổi từ 60-85 lại cho một kết quả rất bất ngờ. Những người này được yêu cầu tập chơi trò NeuroRacer một giờ mỗi ngày, ba lần trong tuần, trong vòng một tháng với một phiên bản cho phép nâng mức độ khó của trò chơi lên từ từ cho đến lúc nào họ cải thiện được khả năng chơi.

Kết quả là các vị lão thành đi đến được thành tích đôi khi cao hơn cả những người chơi ở độ tuổi 20. Như vậy, nghiên cứu này củng cố thêm niềm tin của các nhà khoa học theo đó, hoạt động của não bộ có rất nhiều khả năng to lớn ngay khi chúng được kích thích, nhất là thông qua các công cụ kỹ thuật số. Tờ báo kết luận : « Não bộ chỉ trường tồn vĩnh hằng … nếu khi nào ta sử dụng đến chúng ». Đó cũng là tựa đề bài viết. 


Nguyễn Thanh Dòng - 5 trụ cột của xã hội dân sự - việc cần làm ngay tại Việt Nam


Nguyễn Thanh Dòng

Tôi đến YangGon – Myanmar những ngày đầu tháng 9/2013 trong một chuyến thăm các thành phố lớn cổ kính và nổi tiếng với hàng ngàn ngôi chùa, cùng phong cảnh và người dân hiền lành đáng yêu. Đất nước vẫn còn nguyên vẹn dấu vết của một thời độc đoán, độc tài và khép kín, nhưng giờ đã thực sự tắm rửa từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, đã khoác vào mình tấm áo cơ chế mới đẹp và rất hoành tráng bởi những cơ sở vật chất hạ tầng đường sá, hải cảng tầm cỡ quốc tế. Myanmar cổ kính, xinh đẹp và thật hiền hậu, khi du khách và các nhà đầu tư toàn thế giới đổ vào đây, coi đây là mỏ vàng cuối cùng của Châu Á, là nàng tiên ngủ say trong rừng giờ chuẩn bị tỉnh giấc. Và Việt Nam ta, con rồng xưa của Châu Á làm được gì, khi mà cơ chế ta đang vận hành thực sự lạc hậu và lỗi hệ thống?


Thiết nghĩ văn minh nhân loại là tài sản chung của tất cả chúng ta và chắc chắn không của riêng quốc gia nào. Do đó chọn mô thức, thể chế tối ưu nhất của loài người để áp dụng vào quốc gia mình, đất nước mình, làm cho “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” là mệnh lệnh thời đại là việc của Lãnh đạo cao cấp đất nước phải thực thi.

Không làm điều đó chính Lãnh đạo là người có tội với dân, với nước. Tôi nhắc lại: Có tội chứ không phải có lỗi. Mà hành vi có tội thì có thể bị án treo cho đến án tử hình.

Đến thời điểm này – Xã hội dân sự Việt Nam nên được xây dựng bằng những trụ cột cơ bản sau:

Trụ cột thứ nhất: Văn hóa phải dân chủ.

Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do và có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên (công dân) đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi.

Dân chủ ở đây đồng nghĩa với dân chủ Đa nguyên phản biện trên nghị trường, trong diễn đàn, Quốc hội. Dân chủ là dân thực sự là chủ của đất nước. Người dân được tự do lựa chọn Lãnh đạo Đất Nước bằng chính lá phiếu của mình. Họ nghiễm nhiên (người dân) được phán quyết tất cả những vấn đề hệ trọng của Quốc gia bằng trưng cầu dân ý, Dân đồng ý thì nhà nước, quốc hội mới được làm, dân không đồng ý thì nhà nước, quốc hội không được làm, không dùng vũ lực, công an, quân đội để trấn áp dân, v.v. làm ngược lại nguyên lý trên, nhà nước không còn là của dân.

Trụ cột thứ hai: Nhà nước phải là nhà nước pháp quyền.

Chúng ta có thể hiểu nhà nước pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội… bằng pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng pháp luật trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.

Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền lợi, nghĩa vụ của mọi người và của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị nhân bản là con người và đảm bảo cho công dân có khả năng, điều kiện, chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài Hiến pháp, và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự do và quyền công dân.

Phải tam quyền phân lập, phải hoàn thiện luật mẹ, luật gốc (tức bản Hiến pháp). Từ người lãnh đạo cao nhất của đất nước cho đến người dân phải sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, ai sai người đó phải chịu tội (hoặc chịu phạt lỗi) do mình gây ra. Không có ngoại lệ, không có người sống ngoài vòng pháp luật, không chạy chọt mua quan bán chức, không có khái niệm con ông cháu cha, v.v. Đất nước thực sự có đầy đủ nền pháp quyền và dân quyền.

Trụ cột thứ ba: Kinh tế được vận hành hoàn toàn theo cơ chế thị trường. 

Cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi.

Cơ chế thị trường là cách thức tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, khi mỗi nhà sản xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để có quyết định về sản xuất, sẽ không có sản xuất thừa, cũng sẽ không có sản xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được đảm bảo do không có tổn thất xã hội.

Kinh tế thị trường có nghĩa là mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ cung cầu.

Ở đây không có đuôi Xã hội chủ nghĩa, không có kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Tất cả các thành phần kinh tế đều được toàn quyền phát triển theo thực lực của mình... Nhà nước tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, tất cả đều có lợi, hướng tới một nền kinh tế đa sở hữu, đa thành phần mà đích đến là một xã hội khá giả, hài hòa, cơ hội được chia đều cho mọi người lao động hăng say, nhiệt tình, có bản lĩnh và trí tuệ.

Trụ cột thứ tư: Xã hội dân sự.

Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường. Điển hình xã hội dân sự phát triển tốt đẹp hiện nay như Anh, Đức, Canada, Luxembua, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Hà Lan, v.v.

Một xã hội dân sự là một xã hội không dùng bạo lực, coi phương pháp hòa bình, biện pháp bất bạo động là quyền lực nhà nước cho xã hội dân sự phát triển, vũ lực chỉ chống lại quân xâm lược và những kẻ hại dân hại nước để giữ vững an ninh trật tự xã hội mà thôi.

Trụ cột thứ năm: (Trụ cột cuối cùng) Đất nước phải có nền pháp lý hoàn toàn lý tính.

Lý tính là một thuật ngữ dùng trong triết học và các khoa học khác về con người để chỉ các năng lực nhận thức của tâm thức con người. Nó miêu tả một dạng tư duy hay khía cạnh tư duy, đặc biệt là tư duy trừu tượng, và khả năng tư duy trừu tượng - cái được cho là chỉ con người mới có – các loại vật khác không có tư duy lý tính.

Thật vậy, tệ chạy chức quyền con ông con cháu, tệ không trọng dụng được người tài, kẻ nịnh bợ bất tài có đất dụng võ không gì khác hơn là nền pháp lý nước nhà sa sút và kém chất lượng nghiệm trọng. Với nền pháp lý như hiện tại xã hội khó phát triển bình thường.

Viết những dòng này để chia sẻ và bằng tấm lòng thành gửi đến mọi người Việt máu đỏ da vàng (không kể người đó ở trong hay ngoài nước, thuộc thành phần và tầng lớp nào). Mong, mong lắm thay đất nước mình hãy mau cởi ngay cái áo cơ chế của đứa trẻ lên 3 đang mặc lên cho 1 người đàn ông U40, U50. Áo ấy, xấu lắm, nát lắm, rách lắm - Hãy vứt đi, hãy chôn đi, đừng để cả thế giới nhìn vào với cặp mắt coi thường hãy cố lắng nghe lời ông Lý Quang Diệu nói rằng: ”Người Việt là giống người năng động và tài giỏi ở Đông Nam Á. Học sinh đến Singapore theo dạng học bổng Asean rất nghiêm tục học hành và đậu thứ hạng cao nhất. Với giống người thông minh như vậy, quả thật là đáng tiếc là họ lại thiếu tiềm năng. Hy vọng rằng sau khi hết lớp người trải qua cuộc chiến, giới trẻ sẽ kế nhiệm, họ sẽ thấy Thái Lan đã thành công ra sao và họ sẽ bị thuyết phục bởi mức độ quan trọng của thị trường tự do”, và cả cái phẩy tay của Ông khi nói tới lãnh đạo Việt Nam.

Hãy xây dựng một xã hội Dân sự bằng những trụ cột cơ bản trên, bởi cho đến bây giờ chưa có một hình mẫu nào, mô thức nào tốt và tối ưu hơn nó - 5 trụ cột cho một xã hội dân sự phát triển…

Hàng triệu người Việt Nam đang muốn chấm dứt những cảnh bất công, tham nhũng, trì trệ, họ muốn đất nước đổi mới thật sự, thay đổi từ gốc đến ngọn.

Hãy tự tắm đi, hãy kỳ cọ thật kỹ vào (từ trên xuống, từ dưới lên, kể cả những phần kín và nhạy cảm nhất). Đừng vì ý thức hệ nào hết, đừng vì lợi ích nhóm nào hết, tất cả hãy vì 90 triệu con dân Đất Việt – vì dân tộc bi hùng 4000 lịch sử và vì tổ quốc này – Mẹ Việt Nam yêu quý của chúng ta.

Yanggon - Myanmar, Ngày 20 tháng 09 năm 2013

N.T.D.
Nguồn: Bauxite Việt Nam

Nam Nguyên - Kinh tế tư nhân cứu nền kinh tế khỏi sụp đổ


Nam Nguyên,
phóng viên RFA



Diễn đàn Kinh tế Mùa thu ở Huế trong hai ngày 26 và 27/9. - Courtesy ld.com.vn 

Thực tế tồi tệ và dự báo đầy bi quan của nền kinh tế Việt Nam được các chuyên gia đưa ra tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu khai mạc ngày 26/9 tại Huế.

Cảnh báo tiền đề của sự sụp đổ

Nếu đọc các bài báo về các cuộc hội thảo, hội nghị và diễn đàn trình bày thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây, thì hẳn những nhà quan sát, những người ở vị thế trung lập đều đặt ra một câu hỏi, đây có phải là những cảnh báo, tiền đề của sự sụp đổ nền kinh tế nếu không có đối sách thích hợp và kịp thời.

Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu IDS đã tự giải thể, từ Hà Nội đưa ra nhận định rất đặc biệt. Ông nói rằng ông không tin về một sự sụp đổ nào cả vì trên thực tế kinh tế tư nhân đóng góp tới 70% GDP Tổng sản phẩm nội địa và chính phủ thì đã tới ngưỡng không thể nào làm hại khu vực tư nhân hơn nữa.

“Tôi không bi quan như các học giả nhà nước bởi vì họ chỉ chăm chăm tới chuyện của khu vực nhà nước của họ. Phải nói thật khu vực tư nhân bị ảnh hưởng của chính sách của chính phủ rất nhiều, nếu chính sách của chính phủ mà phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân, để làm sao cho nguồn lực của xã hội được phân bổ cho khu vực tư nhân, là khu vực hoạt động hiệu quả nhiều mà không bị làm méo mó vì chính sách sai lầm của đảng Cộng sản Việt Nam về mặt kinh tế, ưu ái cho doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo… rồi đất đai giữ sở hữu toàn dân, thì nền kinh tế Việt Nam có thể phát triển nhanh hơn nhiều. Còn nếu người ta vẫn giữ nguyên như vậy thì rất đáng tiếc, nó sẽ không thể phát triển nhanh. Nhưng mà dẫn đến sự sụp đổ thì tôi không tin.”

TS Nguyễn Quang A hàm ý những chính sách sai lầm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nền kinh tế tụt hậu. Khu vực quốc doanh được phân bổ phần tài nguyên, nguồn lực rất lớn mà thành quả thì rất kém, trong khi khu vực tư nhân chịu sự đối xử bất bình đẳng nhưng lại đóng góp phần nhiều nhất và tiếp tục tồn tại. TS Nguyễn Quang A tiếp lời:
“Từ trước đến nay mọi cuộc khủng hoảng đều do chính sách của đảng Cộng sản gây ra và chính người dân là người cứu toàn bộ nền kinh tế này khỏi khủng hoảng và cũng thực sự một phần nào đó cứu sự tồn tại của đảng Cộng sản này. Thử nhìn lại thời bao cấp, thời người ta cấm nhân dân làm tư nhân bắt phải làm tập thể hết. Do chính sách ấy mà nền nông nghiệp bị lụn bại, chỉ mỗi chuyện nông dân phá rào làm khoán, làm tư nhân thì cải thiện được tình hình. Luôn luôn là nhân dân chứ không phải giới lãnh đạo.” 

Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên phát biểu
tại Diễn Đàn Kinh tế Mùa Thu 2013. Photo courtesy of pnonline.

Ngày 26/9 tại phiên khai mạc Diễn đàn Kinh tế Mùa thu 2013 do Ủy ban Kinh tế Quốc hội tổ chức tại Huế, ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, một tổ chức nghiên cứu của Nhà nước, nhận định rằng, kinh tế Việt Nam tắc nghẽn và vẫn đang trong lộ trình xuống đáy. Học giả này cho rằng Việt Nam nằm ngoài quĩ đạo phục hồi của kinh tế thế giới và tình hình của Việt Nam có thể đã chạm đáy tăng trưởng, nhưng chưa chạm đáy về điều gọi là “tồn kho thể chế”. Đáy rủi ro, đáy lòng tin, chưa đụng đến mô hình.

Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam, ông Trần Đình Thiên đồng ý với những ý kiến cho là kế hoạch 5 năm 2011-2015 của Chính phủ hầu như đã vỡ.

Đáp câu hỏi của chúng tôi, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu IDS đã tự giải thể, từ Hà Nội đưa ra nhận định:
“Kế hoạch 5 năm vừa qua và nói chung tất cả các kế hoạch 5 năm đều không có nhiều ý nghĩa lắm. Đúng là nền kinh tế Việt Nam từ 2006 đến bây giờ đã vấp phải những vấn đề nội tại rất khó xử và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm cho những khó khăn trầm trọng thêm.” 

Cần chấm dứt sự bất bình đẳng

Tại Diễn Đàn Kinh tế Mùa Thu, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên đề xuất giải pháp chiến lược là nhân cơ hội sửa đổi Hiến pháp 1992 cần chấm dứt sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không ghi thành phần kinh tế “chủ đạo” tại Hiến pháp. Ngoài ra về đất đai thay vì sở hữu toàn dân nên chuyển sang đa sở hữu.

Đối với giải pháp chiến lược vừa nêu, trả lời chúng tôi TS Nguyễn Quang A nhận định:
 “Nếu ở Hội nghị Huế lần này đại bộ phận các học giả có ý kiến như thế thì rất đáng mừng vì họ đều là những người ở trong bộ máy nhà nước, họ lại cũng thống nhất về cơ bản với chúng tôi là những người ở ngoài mà nói rằng, tất cả những khó khăn này của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua, cái lỗi chính là ở đường lối của đảng Cộng sản Việt Nam mà bây giờ họ nhìn ra là khu vực kinh tế nhà nước không còn giữ vai trò chủ đạo nữa. Nếu chưa nói được kinh tế tư nhân giữ vai trò chủ đạo mà chỉ bỏ được cái gọi là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và để cho bình đẳng, cũng như giải quyết được vấn đề đất đai. Đấy chưa phải là tất cả, nhưng được như thế thì là một bước chuyển biến không nhỏ của tư duy phát triển kinh tế. Nếu đúng là như thế thì là điều đáng mừng, tôi chỉ e ngại những người tham dự hội thảo cũng lại chỉ là nói với nhau cho vui chứ không có quyền quyết định gì cả.”

Cùng về vấn đề này, chúng tôi nêu câu hỏi với ông Bùi Kiến Thành một chuyên gia tài chánh từ nước ngoài về Việt Nam làm việc và ông nhận định là, nếu một nền kinh tế thực sự phát triển tốt thì tất cả các thành phần kinh tế phải có cơ hội để hoạt động tốt, chứ không riêng gì những thành phần kinh tế quốc doanh với vai trò chủ đạo. Ông Bùi Kiến Thành nhấn mạnh, kinh tế quốc doanh đang ở trong mức gọi là rất bi đát về vấn đề khả năng hoạt động cho có hiệu quả. Vì vậy việc kinh tế quốc doanh chủ đạo hẳn nhiên là tầm nhìn đã xưa rồi từ khi có những chế độ kinh tế kế hoạch tập trung mà nay đã loại bỏ. Phải đi đến chỗ giải quyết vấn đề tư duy đó cho rõ ràng. Ông Bùi Kiến Thành tiếp lời:

Ông Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc Đại hội Đảng lần 11 hôm 12/1/2011. AFP Photo. 

“Nói vấn đề tu chính Hiến pháp thì hiện nay những ý kiến đưa ra có nhiều ý kiến hay và tốt đấy, nhưng liệu là các nhà cầm quyền có nghe hay không. Nếu nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là sẽ không có và không khi nào có vấn đề tam quyền phân lập ở đất nước này, thì như thế làm gì có tự do làm gì có vấn đề nhân quyền, làm gì có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế được. 

Hiện có rất nhiều bất cập về thể chế mà có lẽ đến một lúc nào đấy vì quyền lợi của đất nước của nhân dân người ta sẽ thực sự giải quyết thôi. Vấn đề hiện nay chưa thấy có ánh sáng dưới đường hầm về vấn đề thể chế nó sẽ thay đổi như thế nào cho phù hợp để hội nhập với cộng đồng quốc tế về kinh tế thị trường cũng như về thể chế dân chủ.” 

Tham luận của Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên tại Diễn đàn Huế được báo chí trích thuật nói rằng, Nhà nước nói chuyện tái cơ cấu nhưng cho đến nay vẫn chưa có hành động chiến lược. Cụ thể nợ xấu và sở hữu chéo vẫn còn nguyên, các tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn ở tình trạng đề án tái cơ cấu trên giấy mà thôi.

Về vấn đề liên quan, nói chuyện với chúng tôi chuyên gia tài chánh Bùi Kiến Thành từ Hà Nội nhận định, kinh tế là hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp không có điều kiện để phát triển thì lấy gì mà cơ cấu. Về vấn đề tiền tệ thì nợ xấu nợ khó đòi lên tới mức vượt báo động và chưa được nhà nước quyết tâm giải quyết thì làm sao nói chuyện tái cơ cấu. Ông Bùi Kiến Thành tiếp lời:
“Từ mười mấy năm đã nói phải cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, bao nhiêu lần báo cáo ra Quốc hội hàng năm, bảy trăm trang mà có làm gì được đâu. Bây giờ là lúc phải thật sự quyết liệt làm việc này. Nhưng liệu có làm được hay không? tại vì Việt Nam không phải như các nước khác. Ở Việt Nam các lãnh đạo Tập đoàn lớn là đảng viên, đối với đảng viên không phải là giải quyết vấn đề hành chính trong công ty. Ông Thủ tướng có quyền bãi nhiệm một Tổng giám đốc trong các Tổng Công ty Nhà nước hay không, hay việc đó là đảng phải giải quyết trước khi hành chính có tiếng nói. Từ tiền tệ tài chính cơ chế chính sách tới cơ cấu qui hoạch cán bộ, nếu không giải quyết những vấn đề ấy thì tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam khó đạt được.” 

Theo báo chí ghi nhận, tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu 2013, TS Lê Quốc Lý, Phó giám đốc Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia nhận định rằng, nhà nước đã phạm một loạt sai lầm, các giải pháp chưa hiệu quả đã vội thắt chặt tiền tệ, không có thu lấy đâu ra chi để tiến hành các giải pháp cải cách, mà giải pháp nào cũng cần tiền. TS Trần Du Lịch Ủy viên Ủy ban Kinh tế Quốc hội đã phản đối ý kiến của ông Lê Quốc Lý với lập luận, ý kiến vừa nêu của ông Lý là “cực kỳ nguy hiểm” vì nó phê phán và chống lại Nghị quyết 11. Theo TS Trần Du Lịch thắt chặt chi tiêu hiện nay là cái giá phải trả, để cố gắng ổn định vĩ mô, nếu không tiếp tục hy sinh, giá phải trả sẽ đắt hơn.

Mỗi năm Ủy ban Kinh tế Quốc hội tổ chức hai Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân và mùa Thu. Hàng ngàn ý kiến được các chuyên gia, học giả đóng góp nhằm tiềm kiếm giải pháp cho con bệnh thập tử nhất sinh là nền kinh tế Việt Nam. Cho tới nay hàng ngàn ý kiến được nêu ra nhưng có vẻ vẫn chưa được tiếp thu, vì ở Việt Nam như các chuyên gia nói, khi nào đảng Cộng sản chưa muốn cải tổ thì chẳng thể làm gì.