Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013
Trần Trung Đạo - “Hãy tôn trọng lịch sử” nhưng lịch sử nào?
Trần Trung Đạo
Tôi chưa đọc Bên Thắng Cuộc đầy đủ để
viết về tác phẩm này. Có thể khi đọc xong cả hai cuốn, sẽ nhận xét Bên Thắng
Cuộc với tư cách một người miền Nam đã sống những năm khắc nghiệt ở Sài Gòn,
“sinh viên chế độ cũ”, đi kinh tế mới, vượt biển và trăn trở cùng đất nước. Bài
viết này chỉ bàn đến luận điểm mà các báo lề đảng dùng khi viết về tác phẩm Bên
Thắng Cuộc.
Hầu hết báo lề đảng đều đòi hỏi “Hãy tôn trọng lịch sử”,
vâng, nhưng lịch sử nào?
Một trong những đề án lớn của các quốc gia thuộc khối CS Liên Xô
cũ không chỉ phục hồi kinh tế, ổn định xã hội sau gần 80 năm sống trong chế độ
toàn trị kinh hoàng, mà còn là viết lại lịch sử. Các nhà sử học Nga dành nhiều
năm để đánh giá các sự kiện diễn ra từ thời Vladimir Lenin đến Mikhail
Gorbachev và cho đến nay vẫn còn đang đánh giá. Nhiều chi tiết như các điều
khoản bí mật trong hiệp ước Molotov-Ribbentrop, việc chiếm đóng các quốc gia
vùng Baltic, sự giúp đỡ của đồng minh trong thế chiến thứ hai, v.v... đã bị xóa
trong sử CS. Một số sự kiện có nhắc đến nhưng lại cố tình viết sai thủ phạm như
vụ tàn sát 22 ngàn sĩ quan Ba Lan tại rừng Katyn vào tháng 3 năm 1940 được viết
là Đức Quốc Xã chứ không phải do mật vụ Sô Viết hành hình. Không chỉ sử Nga mà
cả lịch sử thế giới, sự sụp đổ của đế quốc La Mã, các hình thái kinh tế cũng
được giải thích theo quan điểm CS.
Các nhà sử học Việt Nam trong tương lai cũng sẽ nhức đầu như
thế. Lịch sử không có một dòng chảy chính thống và trong suốt qua các thời kỳ
đất nước. Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi
cả nước là lịch sử của kẻ thắng trận, được giải thích theo quan điểm của kẻ
thắng trận và để phục vụ cho mục đích của kẻ thắng trận. Lịch sử Việt Nam mà
sinh viên học sinh đang học là lịch sử được phát ra từ cái loa, biểu tượng cho
bộ máy tuyên truyền của chế độ, giống như cái loa mà Huy Đức có thể đã ám chỉ
trong bìa sách Bên Thắng Cuộc.
Rất nhiều tranh luận về lý do tồn tại của chế độ CS tại Việt
Nam. Trong cái nhìn của riêng tôi, chế độ CS tại Việt Nam chưa sụp đổ, không
phải nhờ đổi mới kinh tế, ổn định xã hội nhưng chính là nhờ tác dụng của cái
“loa lịch sử” đó. Đảng CS ít nhiều đã thành công trong việc che giấu được tội
ác và khoác cho mình chiếc áo chính danh, chính nghĩa, hay ít nhất không một
thành phần dân tộc nào chính danh, chính nghĩa hơn đảng CS.
Đảng Cộng sản tại năm quốc gia sót lại từ phong trào CS quốc tế,
đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam đã pha chế chủ nghĩa Dân tộc vào chủ nghĩa Cộng
sản thành một loại hợp chất gây mê mang nhãn hiệu Dân tộc Xã hội chủ nghĩa.
Đảng CS lý luận rằng họ ra đời để đáp ứng một nhu cầu lịch sử và, như một tác
giả viết trong báo Pháp Luật, “những người cộng sản chỉ nối tiếp sứ mệnh mà
lịch sử giao phó”. Lịch sử nào giao phó?
Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của đảng CS rõ như ban ngày khi đẩy
hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn của Nga, Tàu vào cưỡng chiếm miền
Nam. Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không đến cũng chẳng ảnh hưởng gì
đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn lãnh thổ Việt Nam nhất quán từ
ngày thành lập đảng CS vào năm 1930. “Độc lập dân tộc”, “Thống nhất đất nước”
chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” bộ máy
tuyên truyền tinh vi của đảng cũng thừa khả năng để nặn ra hàng trăm chiêu bài,
khẩu hiệu hấp dẫn khác để kích thích và lợi dụng lòng yêu nước. Bộ máy tuyên
truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ
sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu
nước” trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ” là bước kế tục của chiến
tranh chống Thực Dân Pháp. Đó là lý luận của kẻ cướp. Đảng CS không chỉ cướp
đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người đã chết.
Như tôi đã viết trước đây, miền Nam có đàn áp chính trị nhưng
cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong
trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có
ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân
biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Xây dựng một xã hội dân chủ vừa bước ra khỏi
phong kiến và thực dân là một tiến trình vinh quang nhưng cũng đầy trắc trở.
Dân chủ ở miền Nam như một chiếc cây non lớn lên trong mưa chiều nắng sớm.
Nhưng dù có khó khăn, tham nhũng thối nát bao nhiêu đi nữa, đó cũng là vấn đề
riêng của Việt Nam Cộng Hòa không dính dáng gì đến đảng CS ở miền Bắc. Những
ông như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết có đủ không gian và phương tiện để đấu
tranh một cách hợp pháp tại miền Nam cho một xã hội tốt đẹp hơn như hàng trăm
chính khách quốc gia khác. Dĩ nhiên, họ có thể thất bại, bị tù đày và ngay cả
bị giết nhưng vẫn là những người quốc gia chân chính. Tuy nhiên, khi tham gia
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, chấp nhận làm công cụ cho đảng
CS, họ đã tự chặt chiếc cầu biên giới giữa họ và nhân dân miền Nam.
Tác giả viết trong "Sài Gòn Giải Phóng" nhắc đến "10 cô gái Đồng Lộc” mà không biết
rằng nếu có thể hiện hồn về, công việc đầu tiên của các cô chết trong hố bom
Đồng Lộc là đi tìm lãnh đạo đảng CS để thanh toán cả vốn lẫn lời vì cái chết
oan uổng của các cô chỉ để đổi lấy một đất nước nghèo nạn, lạc hậu, một chế độ
độc tài, tham nhũng, phản văn minh tiến bộ như ngày nay.
Tác giả trên báo "Sài Gòn Giải Phóng" cũng nhắc đến
đến “nhà tù Côn Đảo”, “nghĩa trang Hàng Dương” làm tôi nhớ đến nơi này. Tôi
cũng đã từng đến đó, không phải vì phải ở tù mà chỉ vì muốn biết một di tích
lịch sử của dân tộc. Đảng xem nhà tù Côn Đảo như một “trường đại học CS”, tài
sản riêng của đảng CS nhưng đừng quên nhà tù Côn Đảo do thực dân Pháp lập ra
năm 1862 tức 68 năm trước khi đảng CS ra đời. Năm 1945, đảng CS ước lượng có
khoảng 5 ngàn đảng viên. Cho dù thực dân Pháp bắt và đày nguyên cả đảng ra Côn
Đảo cũng không thể so với số tù nhân thuộc các phong trào yêu nước khác. Với
tôi, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Trong suốt gần
một thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt
Nam đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Những đồng bào đã hy sinh
trong cuộc chiến chống Thực Dân và bỏ xác trên đảo đều xứng đáng được tôn vinh.
Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như
tôi đã có dịp viết trong tiểu luận "Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng
Dương", việc tham gia vào đảng Cộng sản của
một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng
chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa
Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát
triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính
địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam
họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại
Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là
trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ
20. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc
phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất phác, những
công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc
lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết
được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà
còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Đảng Cộng sản như một tổ chức thì
khác. Mục đích của đảng CS không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà
còn nhuộm đỏ cả dòng lịch sử.
Tác giả viết trên báo "Pháp Luật" so sánh việc chính quyền miền Nam tra tấn các đảng viên
CS và tù “cải tạo” sau 1975 khi kết án tác giả Bên Thắng Cuộc đã “Nhấn mạnh
'chế độ hà khắc' của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những
trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với những người yêu nước”.
Những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng, ám sát, đặt mìn trên quốc lộ 1, quốc lộ 4,
đặt bom trong sân vận động, đốt chợ, đốt làng, giết người vô tội không phải tù
chính trị hay tù binh chiến tranh, mà chỉ là những tên khủng bố. Chúng là những
kẻ yêu đảng chứ không phải là “những người yêu nước”. Bấm vào đây -->
"Terrorist Attacks in
Saigon 1960s-70s" để xem các “chiến
công hiển hách” của Biệt động thành Sài Gòn Gia Định khi ám sát hàng loạt “Mỹ
ngụy” còn mặc tã ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Tội ác giết phụ nữ trẻ em của chúng
phải được xét xử theo đúng luật pháp. Điều đó đã và đang được áp dụng tại mọi
quốc gia trên thế giới không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa.
So sánh tù CS ở Côn Đảo và tù “cải tạo” là một cách so sánh vụng
về và không cân xứng. Tổng số tù tại Côn Đảo khác nhau tùy theo bên nào tống kết, 5 ngàn theo con số của
VNCH công bố và 17 ngàn theo con số của Hà Nội. Dù chọn con số 17 ngàn của đảng
thổi phồng vẫn không thể so với hơn 200 ngàn công nhân viên chức và sĩ quan
quân đội VNCH bị giam giữ trong 150 trại tù, đa số tận rừng sâu nước độc kéo
dài từ 1975 đến 1992 mà chính Thủ tướng CS Phạm Văn
Đồng thừa nhận. Các tổ chức quốc tế ước
lượng cho đến 1982 số viên chức và sĩ quan VNCH bị giam giữ vẫn còn lên đến 300
ngàn người. Theo tổng kết của báo chí Mỹ, khoảng 165 ngàn người đã chết trong các trại tù CS. Ngoài ra, hàng triệu thân nhân,
gia đình, con cái họ bị đày ra các vùng kinh tế mới, bị bạc đãi như nô lệ thời
CS chỉ vì lý lịch VNCH.
Một điều quan trọng mà người dân miền Nam sẽ không bao giờ quên,
không giống tù Côn Đảo xảy ra trong thời chiến, tội ác “tù cải tạo” vô cùng phi
nhân đã được đảng thực thi sau khi đất nước đã hòa bình, sau khi Lê Duẩn ngọt
ngào tuyên bố “chiến thắng này thuộc về nhân dân Việt Nam” và sau khi Trần Văn
Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn Gia Định vuốt ve các viên chức VNCH còn
trong Dinh Độc Lập “Nhân dân Việt Nam chính là người chiến thắng và chỉ đế quốc
Mỹ mới thật sự là kẻ bại trận mà thôi”.
Phân tích như vậy để thấy lý luận trong bài viết trên báo
"Pháp Luật" cho rằng cuộc chiến chấm dứt sáng 30/4/1975 “không phải
là chiến thắng của một “'bên thắng cuộc' hạn hẹp mà là chiến thắng của mọi
người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia” đúng là sản
phẩm của chính sách tẩy não. Miền Nam sau 30/4/1975 là một nhà tù và nhân dân
miền Nam là tù nhân dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ 1983, để tồn tại, đảng CS phải tự diễn
biến hòa bình bằng cách mở thêm một
vài ô cửa sổ cho gió vào nhưng thực chất đất nước vẫn còn bị bao bọc bằng bức
tường dày bưng bít thông tin và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một
nhà tù khắt khe quốc tế nào. Lý thuyết Mác Lê có thể chỉ còn trong đầu môi chót
lưỡi, trong các diễn văn, trong các bài ai điếu của các lãnh đạo đảng nhưng các
phương tiện chuyên chính, toàn trị CS vẫn không khác gì nhiều so với thời triệt
để cách mạng trước đây. Một nhạc sĩ trẻ Việt Khang chỉ viết hai bài hát chống
Tàu bị kết án bốn năm tù. Một cô gái Đỗ Thị Minh Hạnh mới ngoài hai mươi tuổi,
đấu tranh cho quyền lợi công nhân phù hợp với luật pháp của đảng CS quy định bị
kết án bảy năm tù, một thanh niên trẻ Lê Sơn chỉ đưa tin tức các cuộc biểu tình
chống Trung Quốc và chống khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bị kết mười ba năm
tù. Và hàng trăm, hàng ngàn người khác đã sống và đã chết, nhiều trường hợp rất
âm thầm, trong nhà tù CS chỉ vì dám nói lên khát vọng dân chủ tự do.
Tác giả trên báo "Sài Gòn Giải Phóng" viết “Có thể
lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất
lòng tin vào đường lối của Nhà nước.” Hãy chỉ dùm tôi, không phải một năm,
một tháng mà chỉ một ngày thôi đảng CS đã “lúc này lúc khác”. Bản chất
của chế độ chưa hề thay đổi dù chỉ một giờ.
Lãnh đạo đảng có 38 năm để chọn một hướng đi phù hợp với trào
lưu tiến hóa của nhân loại, có hàng trăm cơ hội để sửa sai nhưng họ không làm.
Tất cả chính sách của đảng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là củng cố quyền cai
trị mặc cho dân tộc bị bỏ lại phía sau một đoạn đường quá xa so với đà tiến của
nhân loại sau cách mạng tin học và toàn cầu hóa kinh tế cuối thập niên 1980.
Tội ác của đảng với “tù cải tạo”, “kinh tế mới”, “đổi tiền”, “đánh tư sản”, có
viết hàng tủ sách cũng không hết. Nỗi đau và sự chịu đựng vô bờ bến của nhân
dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, không thể nào diễn tả cạn dòng. Hàng
ngàn câu chuyện thật đau lòng đã xảy ra trên con đường máu nhuộm Việt Nam sau
1975 và chỉ được phơi bày khi bức tường chuyên chính CS bị đạp đổ.
Có hai cách để đạp đổ bức tường chuyên chính. Thứ nhất, đi mượn
một cái búa lớn của các cường quốc đem về đập phá bức tường và thứ hai xói mòn
bằng những bàn tay nhỏ Việt Nam kiên nhẫn. Sau 38 năm, những người đi tìm búa
hoặc chết trên đường, hoặc trở về không. Còn lại hôm nay là những bàn tay Việt
Nam nhỏ nhoi. Bàn tay Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy
Chương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê
Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn và hàng ngàn người Việt Nam
yêu nước khác. Dù đang ngồi trong bốn bức tường đen, họ mới chính là những
người đang viết sử và thấy đâu là sự thật.
* Nguồn: RFA
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét