Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012
Phạm Duy - VĂN CAO TRONG TÔI
Phạm Duy
Trong
ba đêm VĂN CAO TRONG TÔI tại phòng trà TÌNH CA, tôi nói ra
được vài điều mà tôi nghĩ là sẽ bổ ích cho những
người yêu nhạc và nhất là yêu nhạc Văn Cao.
Trước
hết, tôi nói tới sự đa dạng trong nhạc tình của VC
trong thời kỳ mới thành lập của Tân Nhạc này. Lúc đó,
những chàng thanh niên mới tập tễnh soạn ca khúc VN (như
Lê Thương, Đặng Thế Phong, Hoàng Qúy, Văn Cao…) thường
dùng một âm giai “mineure” hơi giống như âm giai của
điệu Sa Mạc (re
fa sol la do re). Những bài như Buồn Tàn
Thu, Bản Đàn Xuân, Cô Láng Giềng, Con Thuyền Không Bến
đều có chung một hơi hướng VN và
một phong cách buồn bã như nhau.
Duy
chỉ có Văn Cao là muốn thay đổi phong cách, cho nên sau
Buồn Tàn Thu thì
ông buông cái “re mineure” ra và dùng những âm giai
“majeure” để diễn tả cái buồn (lúc đó chưa có nhạc
vui trong Tân Nhạc như hướng đạo ca
hay thanh niên lịch sử ca.
Ngay Nguyễn Xuân Khoát và Đỗ Nhuận cũng còn bám vào âm
giai “re mineure” để viết Hồn Xuân,
Nhớ Chiến Khu hay
Côn Đảo).
Không
còn là ngũ cung “re mineure” nữa, và dù tác giả tuyên
bố trong một cuốn video, đây là ca
khúc của kẻ thất tình, nhạc điệu
trong Thu Cô Liêu, Cung Đàn Xưa
của Văn Cao là nhạc chủ thể
Tây Phương (musique
tonale) với những áp-âm
(notes sensibles) làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính. Nhịp
điệu là thể valse
đầy lưu luyến và cũng đầy luyến tiếc.
Sau
đó, trong hai bài nhạc
tình
về mùa Thu và mùa Xuân là Suối
Mơ và
Bến
Xuân,
bao giờ nét nhạc mineure
mở
đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một
nét nhạc majeure
ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh
người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng
lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều
không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho
người nghe thấy một chút hạnh phúc. Con suối trong rừng
Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình
yêu của chúng ta. Ðứng trên bến Xuân để nhìn những
cánh buồm xa xa và nghe tiếng chim ca như lưu luyến cuộc
tình vừa qua của chúng mình…
Rồi
tới khi vươn tới những tác phẩm lớn như Thiên
Thai và Trương Chi
thì “ngữ nhạc” của Văn Cao sẽ dắt
ta tới đỉnh cao nhất của cuộc tình
tiên cảnh cũng như sẽ đưa ta vào
cõi sâu thẳm nhất của tình buồn
với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình
ca muôn thuở.
Nói về ca từ trong những bài đầu tiên
của
Văn Cao
(trích trong đêm NHẠC
THỌAI VĂN CAO TRONG TÔI)
Về
ca từ, vào lúc thành lập của Tân Nhạc, đa số các nhạc
sĩ đều làm lời ca với thơ năm chữ… có thể họ đã
bị ảnh hưởng thi sĩ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng
Thu :
Em
không nghe mùa thu
Dưới
trăng mờ thổn thức
Em
không nghe rạo rực
Hình
ảnh kẻ chinh phu
Trong
lòng người cô phụ?
Cũng
có thể họ bị ảnh hưởng của bài thơ này trong sách
giáo khoa Lớp Một :
Cứ mỗi độ thu sang
Cứ mỗi độ thu sang
Hoa cúc lại nở vàng
Ngoài
vườn hương thơm ngát
Ong
bướm bay rộn ràng
Em cắp sách tới trường
Nắng tươi rải trên đường
Trời xanh thay áo mới
Đẹp sao lúc thu sang
Văn
Cao đã dùng thơ 5 chữ trong một bài hát hướng đạo như
Anh Em
Khá Cầm Tay :
Anh
em khá cầm tay
Mau
đến cùng nhau hát
Nơi
đây chúng mình ca
Trong
gió chiều thật êm
Bao
nhiêu gió về đây
Chim
chóc về đây hót
A
vui sướng làm sao
Ta
ngó trời xanh êm
Và sau đó, trong
kháng chiến, anh có bài Ngày
Mùa :
Ngày
mùa vui thôn trang
Lúa
không lo giặc về
Khi
mùa vàng thôn quê
Ngày
mùa vui thôn xóm,
Đầy
đồng giáo với gươm
Súng
tì tay anh đứng,
Em
ngừng liềm trông sang.
Quê
Em của Nguyễn Đức Toàn cũng là thơ
năm chữ :
Quê
em miền trung du
Đồng
suôi lúa xanh rờn.
Giặc tràn lên thôn xóm…
Giặc tràn lên thôn xóm…
Sau
này là những bài thơ hay bài hát khác :
Lên xe tiễn em
đi
Chưa bao giờ
buồn thế
Trời mùa Đông
Paris
Suốt đời làm
chia ly
Cung Trầm Tưởng
Đưa em về
dưới mưa
Nói năng chi
cũng thừa
Như
u tình đã qua
Thấm
linh hồn ma soeur
Nguyễn
Tất Nhiên
Chỉ
chừng một năm thôi
Là
quên lời trăn trối
Ai
nuối thương tình đôi
Chỉ
chừng một năm thôi
Phạm
Duy
Thế
hệ nhạc sĩ đầu tiên của Tân Nhạc là chúng tôi, nghĩa
là Lê Thương, Đặng Thế Phong, Văn Cao, Phạm Duy v.v…
cũng như các thi nhân tiền chiến, vào lúc sắp thoát ra
khỏi hay vừa thoát ra khỏi ách thực dân Pháp, nhờ có
cuộc Cách Mạng mùa Thu 1945, thì trong sáng tác, chúng tôi
đều muốn kêu gọi
hay lắng nghe tiếng
quê hương đất nước, mùa màng cây
cỏ, nghe tiếng mẹ, gọi em, gọi đồng bào ruột thịt,
nghe Trời, gọi Phật…
Sau
khi Lưu Trọng Lư lắng nghe mùa Thu
(Em không nghe mùa Thu, dưới trăng mờ thổn thức), Lê
Thương gọi mùa Thu (Thu Trên Đảo Kinh Châu), Thẩm Oánh
gọi thuyền (Thuyền
ơi hãy ghé vào bờ), Văn Cao gọi suối
(Suối ơi, bên rừng Thu vắng), tôi gọi
chiều (Chiều ơi, lúc chiều về rợp
bóng nương khoai)… Mấy chục năm sau, Trịnh Công Sơn vẫn
còn gọi nắng (Gọi
nắng trên vai em gầy), còn thi sĩ Phạm Thiên Thư thì vẫn
nheo nhéo gọi người tình Ẩn Lan
(Gọi Em là Đóa Hoa Sầu). Và dường
như tất cả chúng tôi đều cất cao tiếng gọi Mẹ (Mẹ
Việt Nam ơi, chúng con đã về giữ thơm quê Mẹ)…
Lúc
tiến qua những tình khúc dài hơn Thu
Cô Liêu, Cung Đàn Xưa như Suối
Mơ, Bến Xuân thì ca từ trong nhạc
Văn Cao lại khác đi, có khi nặng về thơ 7 chữ, phần
nhiều là thơ tự do nhưng đi theo với những câu nhạc.
Trong hai bài này, nhạc tính Văn Cao có tính chất mô tả
nhiều hơn.
Trong
thực tế, cho tới lúc này, chưa có một nhạc sĩ nào có
thể mô tả cái đẹp của con suối trong rừng Thu hay mô
tả người đẹp trong cảnh bến sông vào
lúc Xuân sang. Trong cả hai bài nhạc
tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao
giờ nét nhạc mineure mở
đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một
nét nhạc majeure
ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh
người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng
lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều
không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho
người nghe thấy một chút hạnh phúc. Con suối trong rừng
Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình
yêu của chúng ta :
Suối ơi
ôi miền yêu mến
Còn ghi
khi bóng ai tìm đến
Đàn ai
nắn cung lưu luyến
Suối hát
theo đôi chim uyên…
Ðứng
trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa xa và nghe
tiếng chim ca như lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng
mình :
Sương mênh
mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...
Ba
Tuyệt Phẩm của Văn Cao
Tôi muốn dành phần cuối của chương trình
này để nói về ba tuyệt phẩm của Văn Cao : Thiên
Thai, Trương Chi và Trường
Ca Sông Lô.
Hãy nói về nhạc tính
(caractère musicale) của ba tác phẩm này.
Tuy viết ra một bản hát vừa có tính chất
trường ca, vừa có
tính chất nhạc cảnh
– nghĩa là đã vượt qua hình thức đoản khúc… Thiên
Thai có tới 94 khuông
nhạc (measures)
chan chứa những giai điệu thần tiên
và những lời ca thần diệu… nhưng Văn
Cao không tả thực trong bài Thiên Thai
này !
Thiên Thai là một trường
ca ấn tượng, impressionist, tạo
cảm xúc cho người nghe nhiều hơn là mô tả một câu
truyện. Tất cả
những hình ảnh chính của câu truyện cổ như hai
chàng Lưu Nguyễn, bầy
thiên tiên hoặc
những cảnh vật như
suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều
được mô tả một cách rất mơ hồ… giống như trong
một giấc mộng vậy. Ta biết là có con thuyền chở Lưu
Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy
thiên tiên múa hát dâng trái đào thơm…
nhưng ta không thấy được họ.
Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà bằng
cỏ bên suối mơ hay trước bến xuân với hai tình khúc
trước thì Văn Cao có thể mời đón chúng bước vào căn
nhà bên chiếc cầu soi nước để
ngồi nhìn đàn nai đùa trên đám lá
vàng tươi hay đứng trước bến sông
để nhớ tiếc những ngày tha hương…
Nhưng trong Thiên Thai,
cõi mơ của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào cái
vườn cấm này được. Ðây là cõi riêng của Người
Sông Ngự, cõi riêng của nhạc sĩ Văn Cao.
Trương
Chi cũng không hiện thực trong tính
cách, không mô tả (descriptive), chỉ gây ấn tượng cho
chúng ta về tiếng hát hay của anh lái đò, về hạnh phúc
của Mỵ Nương mỗi lần nghe tiếng hát…
Ông
chỉ dùng Trương Chi
để tỏ thái độ của chàng Trương sau khi thất tình,
trước khi chết cũng như sau khi chết :
Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng
ta...
Tâm
hồn tôi đẹp - vì tôi hát hay - nhưng tôi nghèo và hình
hài tôi xấu cho nên người ta không yêu tôi à ? Thì tôi
vẫn có thể đưa ra một tuyên ngôn, rằng :
Người đời có thể khinh ta, quên
ta, nhưng ta vẫn còn riêng ta với
trái đất này…
Ðó là ý nghĩa của bài Trương
Chi…
Nhưng tới khi
soạn Trường Ca Sông Lô
thì Văn Cao đã
không còn dùng phong
cách gây ấn tượng trong tác phẩm nữa. Cuộc sống hiện
thực và anh dũng của toàn thể dân tộc đã khiến cho
anh ra khỏi chất mơ mộng trong việc mô
tả con người,
cảnh vật, sự việc trong một giai
đoạn lịch sử kháng chiến oai hùng của chúng ta.
Trường
Ca Sông Lô mở đầu với đoạn 1 mô
tả Sông Lô, là
con sông ngàn
Việt Bắc có
bãi dài ngô
lau nơi
núi rừng âm u, có
những ngôi nhà mờ
biếc chìm một màu khói Thu... Đó
là nơi mà lửa kháng chiến đã làm cháy
bờ lau thưa, cháy cả thôn trang.
Ai ơi, hãy lặng
nhìn màu nước sông Lô xưa mà nhớ tới cảnh cũ người
xưa….
Sang đoạn 2 ông chuyển cung, chuyển nhịp để kể cho ta nghe chuyện một đoàn người reo mừng trên sóng nước biếc, trở về và thấy trên sông bao nhiêu là đám xác thù. Đó là người dân hân hoan trở về con sông hiền hòa, bát ngát. Dân hân hoan chiến sĩ pháo binh Việt Nam với tiếng trái phá làm quân thù ngập chìm dòng Lô…
Qua
đọan 3, một lần nữa Văn Cao lại chuyển cung, chuyển
điệu : Đây
dòng Lô, đây dòng Lô…
Với đoàn chiến
sĩ sông Lô, thân rừng áo sương, đã vút cao lòng
căm hờn và
làm cho thây
giặc nát tan.
Đoạn
4 của trường ca là đoạn
mineure chậm
rãi, là lời thề
trong đêm gió rét, trong đêm chìm chờ đợi ánh chiêu
dương.
Đoạn
5 của trường ca là đoạn majeure
nhanh nhẹn nói lên niềm vui
hát ca của dân buông lưới, của bóng người sầm uất
bến Then…
Đoạn
cuối là đoạn 6 xưng tụng dòng
sông Lô trôi, dòng sông Lô vẫn trôi, mùa xuân tới nước
băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh ươm bóng tre… dòng
sông Lô lướt trôi, lướt trôi, lướt trôi.
Nếu
Thiên Thai
chỉ nằm trong một giọng Re (mineure và majeure) và Trương
Chi chỉ chuyển
nhịp, chuyển điệu trong hai giọng Re và Sol… thì Trường
Ca Sông
Lô có tới
SÁU LẦN
chuyển âm
(modulations) cũng như chuyển tiết tấu (changing rythmes).
Trường
Ca Sông
Lô là bản
hát dài đầu tiên của chúng ta, là một tuỵệt phẩm mà
những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được
rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giầu cho âm nhạc
Việt Nam.
Tôi
muốn được công khai tỏ lòng biết ơn thiên tài Văn Cao
trong buổi nói chuyện này.
Phạm
Duy,
Phòng
Trà TÌNH CA,
Sài
Gòn
ngày
5 tháng 10, 2007