Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012
Nguyễn Hưng Quốc - Năm 2012: Sự xuất hiện của một quyền lực mới
Nguyễn Hưng Quốc
Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải
Năm 2011, internet và các mạng lưới truyền thông xã hội đã chứng tỏ sức mạnh khủng khiếp của mình trong việc làm bùng phát cuộc cách mạng mùa xuân ở Trung Đông và Bắc Phi, gây rúng động hoặc làm sụp đổ nhiều chế độ độc tài và tàn bạo từng áp chế dân chúng cả mấy chục năm nay, từ Yemen đến Jordan, từ Tunisia đến Ai Cập và Syria. Hai cuộc cách mạng ở Tunisia và Ai Cập có hai đặc điểm nổi bật: bất ngờ và nhanh chóng. Trước khi cách mạng bùng nổ, không ai, kể cả các chuyên viên phân tích tình báo lỗi lạc nhất của Tây phương, có thể tiên đoán được. Từ cuộc xuống đường thứ nhất đến cuộc xuống đường cuối cùng kết thúc cuộc cách mạng với sự quy hàng hoặc chạy trốn của các tên độc tài chỉ có mấy tháng. Cả hai đặc điểm ấy đều gắn liền với một yếu tố: phương tiện truyền thông hiện đại với những blog, Facebook, Twitter, email và tin nhắn… tập trung trong các chiếc điện thoại di động bé tí để trong xách tay hoặc nhét trong túi quần.
Năm 2012 vừa qua, internet và các mạng lưới truyền thông xã hội đã bắt đầu chứng tỏ sức uy hiếp của nó ở Việt Nam. Không thể nói nó đã hoặc đang thúc đẩy một tiến trình cách mạng nào trên cái đất nước gầy guộc đầy những bất công oan khuất của chúng ta. Nhưng chắc chắn nó đã khiến giới cầm quyền khiếp sợ. Biểu hiện của sự khiếp sợ ấy có thể được nhìn thấy dễ dàng qua hai sự kiện chính: Thứ nhất, quyết liệt trấn áp các blogger độc lập, từ Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đến Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải, bất chấp sự phản đối của công luận thế giới. Thứ hai, qua các lời phát biểu có tính cách chỉ đạo của giới lãnh đạo đảng và chính quyền Việt Nam, từ Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gần đây nhất, Bí thư thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải: Tất cả đều xem các blog độc lập như một nguy cơ lớn đối với chế độ. Không phải chỉ nói chung chung, họ còn nêu đích danh một số blog được xem là nguy hiểm nhất đối với họ, trong đó nổi bật nhất là Quan làm báo và Dân làm báo.
Không còn hoài nghi gì nữa, trong mấy năm qua, đặc biệt trong năm 2012 vừa qua, các mạng lưới truyền thông xã hội, đặc biệt blog, đã phát huy tác dụng to lớn trong quá trình dân chủ hoá tại Việt Nam.
Tác dụng ấy được thể hiện ở ít nhất ba khía cạnh chính.
Thứ nhất, chúng dân chủ hoá các nguồn thông tin. Trước, nhà nước Việt Nam, cũng như tất cả các chính phủ độc tài khác, tìm mọi cách để độc quyền thông tin. Cho đến nay, khi cương quyết từ chối yêu sách tư nhân hoá các ngành báo chí và xuất bản, nhà nước Việt Nam cũng muốn tiếp tục duy trì tính chất độc quyền ấy. Họ muốn dân chúng thuộc mọi tầng lớp khác nhau, chỉ tiếp cận được với các thông tin do họ cung cấp và diễn dịch. Tuy nhiên, hiện nay, với sự phát triển của kỹ thuật truyền thông hiện đại, tham vọng độc quyền ấy trở thành bất khả. Dân chúng có thể nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, từ quốc tế đến quốc nội. Những gì nhà nước giấu giếm hoặc muốn xuyên tạc, dân chúng có thể tìm hiểu dễ dàng và nhanh chóng qua các mạng lưới truyền thông xã hội.
Thứ hai, qua các mạng lưới truyền thông xã hội, dân chúng, đặc biệt giới trí thức, có thể đóng vai trò phản biện đối với các chính sách của đảng và nhà nước. Bình thường, nhu cầu phản biện có mặt ở khắp nơi. Nhưng không phải lúc nào sự phản biện ấy cũng được hiện thực hoá. Trước, những tiếng nói phản biện ấy bị bóp tắt qua chế độ kiểm duyệt khắc nghiệt của chính phủ. Bây giờ thì khác. Qua các mạng lưới truyền thông xã hội, nhiều trí thức có thể đặt thẳng vấn đề với đảng và chính phủ. Về chính sách đối với Trung Quốc. Về thái độ đối với những người biểu tình chống Trung Quốc. Về quốc nạn tham nhũng. Về những chính sách sai lầm trong lãnh vực kinh tế và xã hội, từ các tập đoàn kinh tế quốc doanh đến các nhà máy thuỷ điện được xây dựng một cách cẩu thả và vô trách nhiệm ở mọi miền đất nước, v.v.
Khi giới lãnh đạo Việt Nam thừa nhận là nhiều người, ngay cả đảng viên và cán bộ, đã bị dao động trước các tin tức và ý kiến đăng tải trên các mạng lưới truyền thông xã hội độc lập, một mặt, họ đã thừa nhận sự thất bại trong âm mưu độc quyền thông tin của họ; mặt khác, họ cũng đã thừa nhận ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của các trang mạng ấy. Điều này có cái gì như nghịch lý: số lượng các trang mạng độc lập không nhiều, hầu hết đều do một số cá nhân đơn độc điều hành lại lấn át cả bộ máy truyền thông đồ sộ với cả gần 800 tờ báo các loại, trong đó có gần 200 tờ báo ngày và báo tuần, 63 tờ báo trung ương và 97 tờ báo địa phương, gần 70 đài phát thanh và truyền hình do nhà nước lãnh đạo và quản lý. Nghịch lý, nhưng thật ra, nó lại rất dễ hiểu: các chính sách ngu dân, mị dân và lừa bịp dân chúng không dễ gì tồn tại mãi trong thời đại thông tin tiên tiến như hiện nay.
Thứ ba, các trang mạng đã và đang dần dần nối kết mọi người thành một mạng lưới rộng lớn và chặt chẽ. Trên nguyên tắc, blog là một trang nhật ký cá nhân, nhưng trên thực tế, do tính chất tương tác của internet, blog nào cũng là một tập thể đông đảo, bao gồm hai thành phần chính: Một là giữa tác giả và vô số độc giả của họ, những người có thể lên tiếng phản hồi đối với các ý kiến của tác giả. Số lượng người đọc và đóng góp ý kiến càng đông, cái tập thể ấy càng lớn. Ngay cả những người chỉ lên tiếng phản đối cũng thuộc về cái tập thể ấy: Họ cũng là những người đọc thường xuyên và không thể nói được là họ không chịu ảnh hưởng, ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác, ở mức độ này hoặc mức độ khác, các quan điểm của tác giả. Hai là giữa các tác giả với nhau. Để ý mà xem, phần lớn các blog đều đăng lại bài viết của nhiều người khác. Ví dụ, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả các bài viết của tôi trên blog này đều được đăng lại trên nhiều blog khác nhau, đây đó. Qua việc đăng lại như thế, người ta hình thành một tiếng nói chung của cả một tập thể trí thức.
Ở trên, tôi chỉ nói đến blog. Thật ra, các mạng lưới truyền thông xã hội không chỉ dừng lại ở blog. Facebook và Twitter cũng là hai hình thức truyền thông xã hội được rất nhiều người ưa thích. Cả hai cũng đều có chức năng dân chủ hoá thông tin, phản biện và hình thành mạng lưới xã hội của những người cùng một sở thích cũng như quan điểm.
Về lâu về dài, cả ba hình thức blog, Facebook và Twitter đều có những ảnh hưởng lớn đối với xã hội. Chúng dần dần làm thay đổi cách suy nghĩ, cảm xúc và hành xử của con người. Khi cách mạng bùng nổ, chúng lại càng phát huy tác dụng trong việc tập hợp quần chúng. Nhớ, trong cách mạng mùa xuân Ả Rập, khi đã có một nhóm người tiên phong xuống đường, qua các mạng lưới truyền thông xã hội, vô số người khác cũng ùn ùn xuống đường theo. Đám đông, thoạt đầu, chỉ vài ba trăm, sau, chỉ một thời gian rất ngắn, tăng vọt lên hàng chục ngàn, và cuối cùng, cả hàng trăm ngàn người.
Không ai dám chắc sự phát triển của các mạng lưới truyền thông xã hội có thể dẫn đến một cuộc cách mạng ở Việt Nam như chúng đã làm được ở Trung Đông và Bắc Phi trong năm 2011 hay không. Nhưng có một điều chắc chắn, có thể khẳng định được: chúng góp phần hình thành một xã hội dân sự (civil society), một điều rất thiếu tại Việt Nam hiện nay. Nhưng đó lại là một điều rất cần cho tiến trình dân chủ hoá.
Một khi xã hội dân sự đã được hình thành, dù qua một không gian ảo, sự xuất hiện của dân chủ là một điều gần như tất yếu: Giữa chúng có quan hệ nhân quả với nhau.
Ghé thăm các blogs: 31/12/2012
BLOG TRƯƠNG DUY NHẤT
Đã nghe nhiều sự lựa chọn bình xét tương tự từ các báo cũng như nhiều trang mạng khác. Tuy nhiên, bản “top ten ấn tượng” của Một góc nhìn khác sẽ đem đến cho bạn đọc những ngạc nhiên thú vị khác biệt- Hi vọng thế!
1. Cuộc tắm rửa vĩ đại và mỉa mai nhất: Nghị quyết 4 với cuộc kiểm điểm chỉnh đốn rầm rộ trong suốt năm 2012 của đảng cùng kết cuộc không kỷ luật “đồng chí X” và phương pháp “nhóm lò nhân văn” của hội nghị trung ương 6 được coi là thất bại ê chề nhất, như một cuộc “tắm rửa” vĩ đại… mỉa mai nhất!
2. Sự cố ngoại giao bi hề nhất: Tổng thống Brazil đột ngột hủy, không tiếp đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào đúng giờ chót, ngay sau khi ông Trọng có bài giảng lịch sử về chủ nghĩa xã hội tại Cuba, chuẩn bị lên chuyên cơ đến Brazil (mặc dù đây là chuyến thăm ngoại giao nguyên thủ quốc gia theo một lịch trình đã thống nhất và được chuẩn bị từ trước). Lý do được đưa ra theo thông báo là “do khó khăn đột xuất từ phía Brazil”. Có thể nói đây là sự cố hi hữu có một không hai và kỳ cục, bi hề nhất trong lịch sử ngoại giao Việt.
3. Nhân vật ấn tượng nhất: Dân oan giữ đất. Kích hoạt từ quả bom Đoàn Văn Vươn (Tiên Lãng, Hải Phòng) đến ngọn lửa Văn Giang (Hưng Yên), những vành khăn tang Vụ Bản (Nam Định), nhát dao Nguyễn Văn Tưởng Thăng Bình (Quảng Nam), mẹ con bà Lài Cần Thơ khỏa thân giữ đất… Hình ảnh người nông dân, những dân oan vùng lên giữ đất trở thành “nhân vật của năm”, hình ảnh ấn tượng nhất, nhân vật ấn tượng nhất cho năm 2012, một năm rầm rộ hừng hực các cuộc biểu tình vùng lên giữ đất của người dân khắp các vùng miền từ Bắc chí Nam- những cuộc vùng lên đòi đất nhức nhối tâm can.
4. Những cuộc trấn áp kinh động nhất: Đó là trận đánh Tiên Lãng (Hải Phòng) “đẹp đến mức có thể viết thành sách”, là “trận càn” Văn Giang (Hưng Yên), là các cuộc trấn áp Vụ Bản (Nam Định), Kim Sơn (Đông Triều, Quảng Ninh)… Những trận thắng mỉa mai, những trận đánh dân, những cuộc trấn áp kinh động nhắm vào những người dân chân lấm tay bùn vùng lên đòi giữ đất.
5. Sự kiện truyền thông chấn động nhất: Blog “quan làm báo” trở thành một sự kiện truyền thông chấn động với cuộc chiến thông tin tấn công bôi nhọ hạ uy danh Thủ tướng. Ra đời tháng 6/2012, chỉ trong vòng 6 tháng đã kéo hút được một lượng bạn đọc khủng khiếp: gần 60 triệu lượt người đọc, tương đương 2/3 tổng dân số quốc gia. Đến mức Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải lên tiếng chỉ trích là “thế lực thù địch chống đảng chống nhà nước”, yêu cầu điều tra xử lý đồng thời cấm cán bộ viên chức truy cập. Đến nay vẫn chưa thể xác định đúng chủ nhân cũng như thế lực đứng sau trang blog chấn động này là ai (ngoài những tin đồn trên mạng nhắm vào cựu nữ đại biểu quốc hội Đặng Thị Hoàng Yến).
6. Vụ án rúng động nhất: Được ví như những bản sao của Vinashin và PMU 18, việc bắt giam gã tài phiệt đầu bạc khét tiếng Nguyễn Đức Kiên không chỉ náo loạn làng bóng đá, như một cú sút kinh động cuốn đổ cuộc cách mạng bóng đá dang dở, mà còn là cú đạp chao đảo thị trường chứng khoán cùng toàn bộ hệ thống ngân hàng và rúng động chính trường Việt.
7. Trận thua đẹp nhất: Cuộc đối thoại hóa giải các đợt biểu tình của trên 400 dân tình và tiểu thương bao vây tỉnh đường Thanh Hóa cùng quyết định thua cuộc, nhường phần thắng cho dân của Bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa Mai Văn Ninh được xem như một trận thua đẹp hiếm hoi so với hàng loạt các trận thắng mỉa mai cay đắng của chính quyền và lực lượng cảnh sát nhằm trấn áp dân chúng biểu tình giữ đất.
8. Chiến thắng mỉa mai nhất: Việt Nam giành quyền đăng cai Asiad 2019 trong bối cảnh nợ đầm đìa, kinh tế tuột dốc không phanh và đời sống dân tình khốn khó. Trong lúc nhiều quốc gia có tiềm lực kinh tế lắc đầu không tham gia, thì Việt Nam lại lao vào chạy đua giành quyền đăng cai Asiad 2019 với một nguồn kinh phí khổng lồ (ít nhất 150 triệu USD) và hồ hởi coi đó là “niềm tự hào”. Một niềm tự hào và chiến thắng mai mỉa!
9. Sự vinh danh nhạo báng nhất: Đó là cuộc vinh danh 50 nhân vật “tiên phong” của Vnexpress. Cuộc vinh danh mà có nhân vật được chọn lại xấu hổ, bất bình không thèm đến dự. Cuộc vinh danh với 50 nhân vật trong đó phần lớn là những ca sĩ, nghệ sĩ, thiết kế thời trang, chủ doanh nghiệp nghe cái tên đã phải… nhổ nước bọt, lại được xướng danh là những nhân vật có “thành tựu nổi bật, tạo ra sự đột phá hoặc thay đổi mang tính cách mạng trong các lĩnh vực”.
10. Phát ngôn ấn tượng nhất: “Tự do cái con c…!”- Phát ngôn kinh động gây phẫn uất dư luận của Trung tá Vũ Văn Hiển, phó công an phường 6 quận 3, TP HCM khi thấy bà Dương Thị Tân, người vợ cũ của blogger Điếu Cày và con trai mặc áo có hàng chữ "tự do cho những người yêu nước" trên ngực.
BLOG TRẦN NHƯƠNG
• Tập thể lúc lắc: Nhóm lợi ích
• Doanh nghiệp NN lúc lắc: Vinalines
• Quy định lúc lắc : Xe chính chủ
• Ngành lúc lắc: Ngân hàng
• Bộ lúc lắc: Giao thông vận tải.
• Công trình lúc lắc: Thủy điện Sông Tranh
• Trường học lúc lắc: Đồi Ngô, Bắc Giang
• Tập đoàn lúc lắc: EVN
• Láng giềng lúc lắc: Trung Quốc
• Tỉnh, thành phố lúc lắc: Hải Phòng (Tiên Lãng), Hưng Yên (Văn Giang)
• Con dường lúc lắc: Đại lộ Đông Tây
• Thương gia lúc lắc: thương lái Khựa
• Cá nhân lúc lắc: Đồng chí X
• Trận đánh lúc lắc: Cưỡng chế Đoàn Văn Vươn (Từ trận đánh do CAHP gọi)
• Nhân vật lúc lắc: Bầu Kiên, Dương Chí Dũng
• Thơ lúc lắc: Thơ nhập Thiền
• Báo chí lúc lắc : Lề phải
• Đài TH lúc lắc: Hà Nội
• Hội thảo lúc lắc: Hội Nhà văn tổ chức
• Tình yêu lúc lắc: Cụ Tổng cựu
BLOG THÙY LINH
Vài giờ trước “phiên tòa cuộc đời”:
Cuối cùng “công lý đã được thực thi”. Xin tỏ lòng biết ơn các anh chị trong Ban biên tập báo Tuổi Trẻ, tòa soạn, đồng nghiệp, cán bộ nhân viên báo TT, đọc giả gần xa, bạn bè tôi và cả những người tôi chưa từng biết mặt đã hết lòng chia sẽ, giúp đỡ gia đình tôi trong những lúc khó khăn nhất.
Tôi muốn nói với mọi người rằng, tôi luôn tự hào và hãnh diện khi được đứng chung hàng ngũ với những người làm báo Tuổi Trẻ. Tuổi Trẻ luôn trong trái tim tôi!
Riêng trong vụ án này, tôi xin khẳng định với mọi người rằng tôi không làm điều gì hổ thẹn với lương tâm và có thể ngẩng cao đầu với những gì mình đã làm.
Xin chào từ biệt!
FB Hoàng Khương.
Tạm biệt Hoàng Khương.
Đâu phải một mình bạn bị kết án? Cả dân tộc này, đất nước này gần như là những đối tượng gây nên “nguy cơ tan vỡ từ bên trong” mà người ta đang nói nhiều trên báo chí, tivi ngày hôm nay.
Mọi người đang “tự chuyển hóa, tự diễn biến” khiến chính quyền đang cần đấu tranh, loại bỏ khỏi xã hội. Tại sao tự diễn biến, tự chuyển hóa? Các quan chức đã chỉ ra rồi đấy, như bạn đã bắt tận tay, chỉ tận mặt kẻ tham nhũng: “Mà lãnh đạo ngày càng không muốn nghe những lời nói thẳng. Chỉ muốn nghe lời nói khen bùi tai nên đã quy tụ xung quanh những người thiếu trung thực” - ông Hữu Thọ kết luận. Còn trung tướng Vũ Hải Triều (Phó tổng cục trưởng Tổng cục An ninh II) bổ sung: lòng tin của đảng viên và người dân đang ngày càng giảm sút trước thực trạng một bộ phận lãnh đạo quản lý kinh tế xã hội yếu kém. Rồi những vấn đề khác về đời tư, lối sống, tình trạng thất thoát, tham nhũng... Theo ông Triều, dư luận đặc biệt bức xúc quanh câu chuyện bổ nhiệm và sử dụng những cán bộ không có đức tài…Nhận diện như vậy nhưng nhân dân vẫn không được bất mãn, vẫn phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng, chính quyền. Như Khương dù bị kết án, đi tù thì vẫn phải tin vào sự công bằng, anh minh của pháp luật XHCN. Được không?
Cùng ngày Khương ra toàn phúc thẩm, lại có luật sư bị bắt vì tội trốn thuế, như Điếu Cày ngày trước. Nghe quen quá. Quen với phương thức đấu tranh mà giờ đây không còn ai tin, nhưng lại nhân danh pháp luật. Thêm một bằng chứng “tự chuyển hóa, tự diễn biến” nữa Khương ơi… Sắp tới lại có “phiên tòa cuộc đời” như Khương, như Điếu Cày, Tạ Phong Tần rơi vào. Sắp tới đây, sẽ còn những ai nữa đứng trước “phiên tòa cuộc đời” như Khương? Bởi thủ tướng vừa ra lệnh cho bộ CA phải đấu tranh với tổ chức đối lập chống lại đảng, nhà nước. Những gì các sinh viên trong mái trường XHCN được dạy dỗ thì quan điểm của chủ nghĩa Marx là: đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực của sự phát triển. Nhưng đất nước mình cấm các sự đối lập, có nghĩa cấm sự phát triển. Ai cần phát triển, giàu có? Những người giàu đã giàu lắm rồi, ăn nhiều đời con cháu không hết, phát triển nữa để làm gì, Khương nhỉ? Như Khương, những ai mong muốn đất nước phát triển đều đang có nguy cơ phải đứng trước “phiên tòa cuộc đời” như Khương đó…Vì rất có thể ý muốn đó sẽ bị tòa truy tố là “đi ngược lại lợi ích đất nước, nhân dân”.
Càng nhiều phiên tòa cuộc đời thì sẽ càng tiến nhanh đến phiên tòa lịch sử soi xét lại từng danh phận con người, nhất là những người cầm quyền.
Vậy thì hãy nhanh lên những phiên tòa cuộc đời, càng nhiều càng tốt…
BLOG J.B NGUYỄN HỮU VINH
Cướp xong đòi đền bù?
Rõ ràng, không cần chứng minh nhiều thì ai cũng đã biết anh em Đoàn Văn Vươn đã buộc phải chống lại việc một đám quân đội, công an với đầy đủ trang bị vũ khí đến vây nhà họ khi ngôi nhà đó không hề là đối tượng để bị bao vây, cướp phá: Nó nằm bên ngoài khu vực có lệnh cưỡng chế. Mặt khác, kể cả lệnh cưỡng chế đất đai nhà họ cũng trái pháp luật, vậy thì dù dưới danh nghĩa nào, việc anh em nhà Đoàn Văn Vươn chống lại đám người đã bất chấp pháp luật nhằm bao vây tiêu diệt họ là chính đáng, chính nghĩa. Dù đám người đó mang danh hiệu nào, lực lượng nào.
Thế nhưng, luật pháp đã dẫn đến việc anh em nhà Đoàn Văn Vươn bị truy tố tội giết người, bị giam cầm gần cả năm nay. Còn đám quân quan đã phá nhà, bắn súng, bắt phụ nữ trẻ em đánh đập, vơ vét tài sản, kể cả con chó con của họ thì… nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
Ngược đời hơn, bây giờ đám người tự dưng đến nổ mìn, nổ súng phá nhà, bắt đánh người, kia lại còn đòi nạn nhân phải bồi thường.
Cần phải xác định rằng, dù dưới nhãn mác nào, danh hiệu nào nhưng khi quay súng bắn vào nhân dân, chống lại lợi ích hợp pháp của nhân dân, thì những người đó, lực lượng đó phải được gọi là lực lượng phản động. Họ đã làm ngược lại nhiệm vụ và sứ mệnh của họ là phục vụ nhân dân. Trong trường hợp này, thì đó phải gọi là một đám cướp có vũ trang, xét về phương diện luật pháp.
Đại tá Đỗ Hữu Ca, người chỉ huy “Trận đánh đẹp” vào nhà dân.
Nếu nói rằng, họ chỉ thi hành mệnh lệnh mà bị thiệt thòi cần đền bù, thì hãy đòi ngay chính những kẻ đã huy động họ đưa đến chỗ để họ vi phạm pháp luật ấy mà đòi. Lực lượng công an do Đỗ Hữu Ca, giám đốc Công an Hải Phòng, người tổ chức “Trận đánh đẹp” phải chịu trách nhiệm đền bù cho họ các tổn thất tinh thần và thể chất. Bên cạnh đó Lê Văn Mải – Trưởng Công an huyện Tiên Lãng cũng là đồng phạm. Về phía chỉ huy quân sự Tiên Lãng do ai huy động, người đó phải chịu trách nhiệm với những kẻ đã bị đưa đi cướp. Kể cả tổn thất về tính mạng nếu có.
Vậy mà bây giờ những kẻ đi cướp lại ngang nhiên đòi nạn nhân bồi thường.
Thử hỏi có đất nước nào, xã hội nào bình thường mà dung túng những hiện tượng đó hay không?
Xưa nay trên thế giới, chẳng có quốc gia nào mà nạn nhân lại phải đền bù cho bọn cướp được coi là pháp luật. Loại trừ những toán thổ phỉ cậy mạnh hiếp yếu trong rừng sâu hoặc bọn Tàu cướp bóc ngoài biển Đông đang làm với ngư dân Việt Nam mà thôi.
Đền bù tổn thất tinh thần?
Đội quân hùng hậu, bách chiến bách thắng, gan dạ, dũng cảm…
Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như lực lượng công an nhân dân Việt Nam luôn được khoa trương và quảng cáo, tự hào là anh hùng, là bách chiến bách thắng, là gan dạ và dũng cảm… đủ các loại ngôn từ ca ngợi. Thế mà chỉ một chiếc bình ga không nổ, vài loạt đạn hoa cải thôi đã hồn xiêu phách lạc. Không những không bắt được thủ phạm dù đã tốn hàng đống đạn, hàng đống mìn với cả đội quân gồm người và chó hừng hực khí thế đông như kiến cỏ bao vây tứ bề.
Vậy thì sự dũng cảm ở đâu khi chỉ có loạt đạn hoa cải mà đã tổn thất về tinh thần đến tận 57 triệu đồng?
Nếu đó không phải là đạn hoa cải, không phải là cái bình ga chưa nổ mà là bom, đạn bắng thẳng, súng cối, chó nghiệp vụ như họ đã sử dụng với gia đình ông Vươn thì tinh thần họ liệu có còn chút nào không? Hay khi đó tinh thần đã là “liệt sĩ” tất cả chứ đâu còn mà “tổn thất”?
Hỡi ôi, cháy nhà mới ra mặt chuột, người dân mới thật sự thấy cái anh hùng, dũng cảm, gan dạ của họ đến đâu khi chỉ nghe vài tiếng nổ đã hồn xiêu phách lạc tổn thất tinh thần?
Hèn chi trên biển, Tàu lạ cứ thế hung hăng, ngư dân cứ vậy mà chịu bắt bớ, giam cầm, cướp bóc rồi đòi tiền chuộc.
Phải chăng người xưa đã nói không sai: “Thầy nào, tớ nấy”
Blog Nguyễn Hưng Quốc
Năm 2012: Khởi đầu 'nội chiến'
Năm 2012 vừa qua có nhiều sự kiện nổi bật ở Việt Nam. Chắc chắn sẽ có nhiều nhà báo tổng kết các sự kiện nổi bật ấy. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc đến một sự kiện, với tôi, quan trọng nhất và cũng tiêu biểu nhất: Đó là năm mở màn cho cuộc chiến trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam.
Bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản thường nói là đảng của họ rất đoàn kết. Đó chỉ là một huyền thoại. Ngay từ lúc mới thành lập vào năm 1930, đã có những cuộc đấu đá nội bộ ở những cấp cao nhất. Sau này, ở miền Bắc, ngay trong thời chiến tranh, các thành viên trong Bộ Chính trị cũng bất hòa với nhau; và họ cũng không thèm giấu giếm sự bất hòa ấy ngay cả trước mặt Hồ Chí Minh. Trong cuốn hồi ký của mình, Hoàng Tùng (1920-2010), nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân và Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, kể:
“Tôi được biết từ năm 1966, cứ mỗi chiều thứ bảy, Bác lại cho làm cơm và nói: ‘Mấy chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hết ra, không nên để bụng’. Anh Nguyễn Chí Thanh làm thư ký cho những cuộc gặp đó cho đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê Văn Lương nói lại với tôi là họ cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai điều gì. Nếu không biết việc này thì không hiểu hết tại sao trong di chúc Bác lại dặn phải đoàn kết toàn Đảng, từ Trung ương đến địa phương. Trên mà đã đoàn kết rồi thì cần gì nói đến cơ sở nữa. Trên đoàn kết mà dưới không thì lôi thôi to, các ông trị cho chết. Chính vì thế mà Bác rất buồn. Có thể có một vài hiện tượng, có đồng chí nào đó muốn vượt Bác, Bác biết hết, nhưng Bác không quan tâm.”
Ghét đến độ không thèm nói chuyện với nhau, nhưng trước công chúng, họ vẫn giả vờ làm như là họ rất đoàn kết. Bởi vậy, suốt cả mấy chục năm, hầu như chỉ có một số người trong giới lãnh đạo mới biết các xích mích giữa họ. Còn quần chúng thì không.
Sau này, cũng vậy. Từ lâu người ta đã biết trong giới lãnh đạo cao nhất của đảng Cộng sản cũng có những sự hiềm khích trầm trọng. Được chú ý nhiều nhất là sự hiềm khích giữa hai nhà lãnh đạo gốc miền Nam: Nguyễn Tấn Dũng (Thủ tướng) và Trương Tấn Sang (Chủ tịch nước). Mối hiềm khích ấy đã manh nha từ cả chục năm trước lúc hai người còn làm việc ở cấp thành phố. Sau đó, nó cứ kéo dài và có vẻ như càng lúc càng nặng nề thêm. Lâu lâu lại rộ lên tin đồn ông này cho bắt người của ông kia vì tội này hay tội khác. Hoặc ngược lại. Tuy nhiên, đó chỉ là tin đồn. Hơn nữa, các ngón đòn thù của họ thường không nhắm vào nhau. Mà vào tay chân thuộc hạ của nhau.
Từ cuối năm 2012 tình hình khác hẳn.
Khác ở hai điểm chính. Một, các ngón đòn thù nhắm vào tay chân thuộc hạ của nhau càng lúc càng dữ dội (tiêu biểu nhất là vụ bãi nhiệm chức Đại biểu Quốc Hội của bà Đặng Thị Hoàng Yến và vụ bắt Nguyễn Đức Kiên – Bầu Kiên – và vụ truy đuổi Dương Chí Dũng). Hai, lần đầu tiên những người lãnh đạo cao nhất nước đối đầu nhau một cách công khai. Hội nghị Trung ương 6 được tổ chức tại Hà Nội vào nửa đầu tháng 10 được xem là một màn tỉ thí kịch liệt giữa hai phe Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng – Trương Tấn Sang. Cuối cùng, cả hai phe hoà nhau. Không ai thắng ai cả. Tuy nhiên, ở đây, lại có ba sự kiện quan trọng:
Thứ nhất, người ta không hề giấu giếm chuyện ấy, hoặc nếu muốn, cũng không thể giấu được. Mọi người dân đều biết mục tiêu của hội nghị là để kỷ luật “một đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị” theo đề nghị của Bộ Chính trị (hoặc một số thành viên chủ chốt trong Bộ Chính trị), nhưng, Ban Chấp hành Trung ương đã không thống nhất ý kiến về đề nghị ấy. Nhờ đó, “đồng chí” ấy được thoát nạn.
Thứ hai, ngay sau hội nghị, khi các uỷ viên Bộ Chính trị tiếp xúc với cử tri, nhiều người, đặc biệt là Trương Tấn Sang, dưới danh nghĩa chống tham nhũng, tiếp tục tấn công Nguyễn Tấn Dũng, người được biết dưới mật danh “đồng chí X”. Dĩ nhiên, Trương Tấn Sang không nói thẳng. Nhưng ông cũng không hề cố tình giấu giếm. Ông úp úp mở mở vừa đủ để bất cứ ai, khi nghe ông nói hay đọc bài tường thuật về các buổi nói chuyện ấy, đều hiểu rõ những khác biệt giữa ông và Nguyễn Tấn Dũng: Một, khi ông “khoe” ông chỉ có một căn nhà duy nhất do nhà nước cấp trong cương vị Chủ tịch nước, và căn nhà ấy chỉ có hơn 50 mét vuông, người ta không thể không liên tưởng đến ngôi nhà thờ họ đồ sộ của Nguyễn Tấn Dũng (cũng như vô số đất đai và nhà cửa khác của ông, con cháu ông và dòng họ ông). Hai, khi Trương Tấn Sang nói đến chuyện sẵn sàng từ chức nếu không làm được việc, người ta không thể không nghĩ đến Nguyễn Tấn Dũng, kẻ cứ khăng khăng bám giữ chiếc ghế Thủ tướng dù bị các “đồng chí” của mình hạch tội tham nhũng, bao che tham nhũng và bất lực trong việc điều hành đất nước trong các phiên họp kéo dài nhiều ngày của cả Bộ Chính trị lẫn Ban Chấp hành Trung ương đảng. Ba, trong khi Trương Tấn Sang muốn đóng vai trò kẻ tiên phong trong trận tuyến bắt “sâu” tham nhũng, ông cũng không ngần ngại gợi liên tưởng đến Nguyễn Tấn Dũng, dưới mật danh “đồng chí X”, như một con sâu đầu đàn đang dung dưỡng cả một “tập đoàn sâu” tàn phá đất nước.
Thứ ba, qua các cuộc công kích của Trương Tấn Sang, người ta cũng có thể thấy, ít nhất một phần, chiến lược huy động lực lượng của ông trong thời gian tới: Nếu lực lượng của Nguyễn Tấn Dũng chủ yếu là những quan chức trong chính quyền và các “đại gia” đang hưởng lợi từ các tập đoàn kinh tế quốc doanh do ông lãnh đạo, lực lượng của Trương Tấn Sang, ngoài các cán bộ vốn theo ông từ trước, sẽ là quần chúng và các cựu chiến binh, những người thuộc thành phần thua thiệt trong cuộc chạy đua giành giật những chiếc bánh cuối cùng của chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, Trương Tấn Sang cũng đang cố gắng giành phần thắng trước công luận như một kẻ đi đầu trong trận chiến chống tham nhũng và cứu vãn đất nước.
Không ai có thể biết cuộc chiến này sẽ dẫn đến đâu. Chỉ có hai điều gần như chắc chắn:
Một, nó không thể hoá giải và hoà giải được nữa. Những mâu thuẫn âm ỉ kéo dài nhiều thập niên mà không thể giải quyết được, khi đã nổ ra một cách công khai trước mặt của cả mấy trăm uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lại càng không hy vọng gì giải quyết nổi.
Hai, tuy Trương Tấn Sang chưa có ưu thế gì so với Nguyễn Tấn Dũng, nhưng về phương diện công luận, ông đã ghi được một bàn thắng rực rỡ qua việc biến Nguyễn Tấn Dũng thành một “đồng chí X” lố bịch, như một tâm điểm của mọi sự đàm tiếu trong xã hội. Khi mức độ lố bịch hoá này được lan rộng và ăn sâu trong quần chúng, nó sẽ biến thành một sự khinh bỉ, và một lúc nào đó, trở thành một sự phản kháng. Lúc ấy, để tự cứu mình, có khi các uỷ viên trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đảng phải quyết tâm thay thế Nguyễn Tấn Dũng để tân trang bộ mặt của đảng. Dĩ nhiên, Nguyễn Tấn Dũng cũng có thể ra tay trừ khử Trương Tấn Sang, ít nhất về mặt chính trị, trước khi khả năng này biến thành hiện thực. Ở khía cạnh này, có thể sẽ có thêm một lực lượng khác, từ bên ngoài, tiếp tay: Trung Quốc.
Cuối cùng, theo tôi, cuộc chiến nổi bật nhất trong năm 2013 cũng vẫn là cuộc chiến giữa hai nhân vật được xem là có nhiều quyền lực nhất Việt Nam hiện nay. Riêng chuyện ai thắng ai thua thì, ở thời điểm hiện nay, may ra, chỉ có…Trời biết.
FACEBOOK ĐỒNG PHỤNG VIỆT
Bác Trần Hữu Dũng – người thực hiện trang web viet-studies.info – một trong những trang web rất đáng bỏ thời gian để xem qua mỗi ngày - vừa đề nghị mọi người hỗ trợ bác thực hiện “Từ điển Ngôn ngữ của Đảng CSVN”.
Theo bác Dũng, sở dĩ bác muốn thực hiện bộ từ điển đó, vì bác không may sống xa tổ quốc”, nhiều lúc bác hơi ngỡ ngàng về ngôn ngữ thường dùng của Đảng, hoặc những cán bộ cao cấp của Đảng (bởi chúng có những nghĩa khác với nghĩa mà bác đã biết).
Một bộ từ điển như bác Dũng mong có là điều hết sức chính đáng nên sau khi đọc được lời kêu gọi của bác Dũng, mình có ý định giúp bác và những người như bác.
Tuy nhiên, sau khi thử làm 15 mục từ mà bác Dũng đã tập hợp, liệt kê, dự định tìm nghĩa để đưa vào cuốn từ điển, mình chợt nhận ra rằng, cách đảng, nhà nước, chính phủ sử dụng từ ngữ - lý do khiến bác Dũng cảm thấy cần soạn từ điển riêng - chính là một lối “cưỡng hiếp tiếng Việt”.
Hóa ra, giúp bác Dũng sẽ không chỉ là hỗ trợ một ý tưởng độc đáo mà còn là cách để nhận ra rằng, tiếng mẹ đẻ đang bị cưỡng hiếp như thế nào.
Dưới đây là một số mục từ mà mình vừa thử định nghĩa. Xem xong, nếu hứng thú, các bạn nên vào viet-studies.info, phụ bác Dũng một tay…
*
“Bao cao su”: Không còn nghĩa là phương tiện dùng để ngừa thai hay hỗ trợ thực hiện tình dục an toàn. Đây là khái niệm mới, đề cập đến một loại chứng cứ, hỗ trợ nỗ lực tạm giam những cá nhân mà chính quyền Cộng hòa XHCN Việt Nam muốn đem đi “cất”, song các cơ quan thực thi pháp luật của họ lại chưa tìm đủ chứng cứ hợp pháp. Căn cứ vào diễn biến thực tế trong vụ án Cù Huy Hà Vũ, cụm từ này chỉ nên dùng với nghĩa vừa kể, khi nó có thêm yếu tố “đã qua sử dụng”. Ngoài ra cần bỏ trong ngoặc kép để tránh lầm lẫn với nghĩa thường dùng.
Bộ phận không nhỏ: Có nghĩa là đại đa số, gần như tất cả. Một kiểu uyển ngữ không cần thiết. không nên dùng vì ai cũng biết là không thật.
Cơ quan chức năng: Một cụm từ rất khó xác lập ngữ nghĩa chính xác, do người dùng không cho rằng “chức năng” tương đồng với “trách nhiệm”. Tạm mô tả đó là những cơ quan khi cần thì không có và lúc có thì không thấy cần.
Điên cuồng chống phá: Thường là nói, đôi khi là thực hiện một số hành vi ôn hòa dù đã được Hiến pháp minh định, rằng đó là quyền của mọi công dân nhưng lại làm Đảng, Nhà nước nổi điên.
Đối tượng xấu: Là những người không xấu như nguyên nghĩa của từ “xấu” trong Việt ngữ nhưng bị những kẻ thực sự xấu sợ và ghét.
Kẻ xấu: Xem mục “Đối tượng xấu”.
Kích động chống phá: Nói hoặc viết công khai những điều nhiều người nghĩ, nhiều người muốn.
Khiếu kiện nhiều (đông) người: Cụm từ chỉ hệ quả của việc khiếu nại, tố cáo, thưa kiện của một hoặc của một ít người nhưng không đem lại kết quả mà họ mong đợi.
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Tên gọi loại quái thai được lai ghép giữa tinh trùng “kinh tế thị trường” và trứng “định hướng xã hội chủ nghĩa”, trái các lý thuyết và kết quả thực nghiệm mà nhân loại đã biết. Thử nghiệm lâm sàng cho thấy, loại quái thai này gia tăng bất công, đói nghèo, đẩy nhanh tiến trình phân hóa xã hội, thúc đẩy các yếu tố tiêu cực di chuyển nhanh đến cực đại. Cũng vì vậy, thí nghiệm không được công nhận, ứng dụng rộng rãi. Tuy nhiên, tại Việt Nam, thí nghiệm vẫn được ca ngợi là bằng chứng của “đổi mới”, “sáng tạo”.
Nghiêm: Tuy chỉ một từ nhưng có giá trị như một thành ngữ, dùng để diễn đạt chuyện chỉ nói rất nghiêm, còn khi làm thì có thể… nghỉ hoặc… nằm.
Phản động: Thường được dùng để chỉ những người bày tỏ những mong muốn chính đáng nhưng điều họ nói là chuyện chính quyền không muốn nghe, hoặc điều họ làm là chuyện chính quyền không muốn thấy.
Thành phần xấu: Xem mục “Đối tượng xấu”.
Tụ họp đông người: Một khái niệm, tuy là sự thóa mạ điều 69 của Hiến pháp 1992 (Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật) nhưng vẫn được chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam tán thưởng bằng Nghị định số 38/2005/NĐ-CP.
Xúi giục: Đề nghị thay đổi hoặc đề nghị nên làm những điều rất cần phải làm.
Xuyên tạc tình hình: Kể những sự thật mình biết cho nhiều người cùng biết. Nếu vừa kể, vừa đưa thêm nhận định cá nhân thì là “Kích động chống phá”. Xem thêm “Kích động chống phá”.
BLOG ĐÀO TUẤN
Tháng Mười Hai 28, 2012
Câu hỏi “tại sao” đối với “cái chết” của Mai Linh thực ra không khó trả lời. Họ vừa tự tử, vừa bị bức tử.
Có hẳn một bài khất nợ trên tờ nhật báo lớn nhất nước, song những gì mà Chủ tịch Mai Linh nói không cho thấy tí chút hy vọng nào để cứu vãn cái chết đang đông cứng niềm tin của 28.000 nhân viên và gây ra sự hoảng loạn trong sự mất ăn mất ngủ của cả ngàn nhà đầu tư đã chót đổ tiền của vào thương hiệu hàng đầu của vận tải Việt Nam này.
5.000 tỷ vốn đầu tư, trong đó 95% đầu tư đúng sở trường vận tải. Thương hiệu taxi số 1 Việt Nam. 12.000 chiếc xe, phủ sóng 54 /63 tỉnh thành. Lực lượng hùng hậu với 28.000 cán bộ công nhân viên. Từ năm 1993, có thể nói Mai Linh là một trong số các thương hiệu tạo ra cuộc cách mạng về tận tải hành khách. Còn giờ đây, 30 tỷ đồng bảo hiểm xã hội cũng phải khất nợ. Bảo hiểm y tế cũng thế. Đến thuế, thứ gắn chặt và gần nhất với cái còng số 8, cũng nợ, và trả nợ theo cách “vắt mũi đút miệng” với 10-50 triệu nộp thuế theo ngày.
Mai Linh không phải đang đứng trước nguy cơ nữa, mà là đang chết.
Tại sao họ chết?
Vì họ vừa tự tử vừa bị bức tử.
Tự tử từ 80 tỷ đồng, từng được coi là số vốn còi đầu tư “tay trái” vào thủy điện La La. Tự tử vì số tiền đổ vào BĐS, dù “chỉ 500 tỷ”. Nhưng sự tràn lan, sự bóc ngắn cắn dài chỉ là một lý do.
Nguyên Phó Chủ tịch VCCI Phạm Chi Lan nhìn nhận trên VTC: Các DN nước ngoài họ không bị tác động vĩ mô nhiều như doanh nghiệp Việt Nam, chí ít không phải vay với lãi suất cao tới trên dưới 20% như DNVN. Riêng trong lĩnh vực vận tải: “Giá xăng dầu, phí trước bạ, phí giao thông, mỗi đầu xe cõng 9 thứ thuế phí mà còn muốn tăng nữa rồi lãi vay ngân hàng lớn, thời gian hoàn trả vốn khó hơn nước ngoài”. Rồi “(Giá) xe ở Việt Nam lại quá đắt, gấp 3 lần giá trên thế giới. Giá xăng dầu liên tục biến động, tính toán của Lao Động cho thấy cứ mỗi lần giá xăng dầu “điều chỉnh”, chỉ riêng chi phí cài đặt, lập trình đồng hồ tính cước Mai Linh mất đứt 4 tỷ đồng/lần cho hơn 10.000 xe.
Trong cái chết Mai Linh, có một chi tiết hàm nghĩa nhiều sự cay đắng. Đó là số tiền 500 tỷ huy động “3 tháng nay chưa trả được lãi”. Dù ông Hồ Huy thừa nhận đây là sai lầm khi “Nguồn vốn ngắn hạn nhưng lại đem đi đầu tư dài hạn”. Nhưng quan trọng nhất, và chua chát nhất là việc đại gia, từng đứng hạng 1 về thị phần vận tải phải thú nhận “Lúc này chúng tôi không biết lấy đâu ra tiền để trả”. Đã không còn gì để mà phải giữ gìn nữa rồi.
500 tỷ đồng, không lớn so với tổng vốn, tổng tài sản, nhưng lãi suất lại không nhỏ, từ 18-25% (cao hơn lãi suất ngân hàng từ 5-10%). Trong năm 2011, chỉ tính riêng phần lãi suất mà hệ thống Mai Linh phải trả cho ngân hàng và cá nhân lên đến 500 tỉ đồng. Tại sao phải “vay nóng”, khi mà nguồn vốn ngân hàng liên tục được cam kết chỉ với lãi suất 14%? Câu hỏi này chỉ có thể do… Thống đốc trả lời.
Tại hội nghị trực tuyến với các địa phương sáng 26.12, chủ tịch tỉnh An Giang Vương Bình Thanh cho biết “vựa cá” này hiện đang tồn kho 26 ngàn tấn cá tra. Hình như sau Bình An, sau Thái Hòa, sau Mai Linh, còn lấp ló rất nhiều những cái chết khác.
Hồi giữa năm, Chính phủ đã có “gói cứu trợ” 29 ngàn tỷ cho các DN. Lãi suất vừa giảm thêm 1% trên lý thuyết. 3 vấn đề lớn là nợ xấu, hàng tồn kho và bất động sản cũng vừa được đặt ra trong hội nghị vừa rồi, nhưng có lẽ, đó chỉ là những giải pháp, dù cốt lõi để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong năm 2013.
Minh Diện - Lại có vài lời với "ANH BINH BÉT"
Minh Diện
Tôi đọc bài viết mới nhất của Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh trên trang Blog Anh Ba Sàm. Đọc đi đọc lại, tôi tự hỏi: Vô tình hay hữu ý, mà bài viết của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh ra mắt bạn đọc chỉ vài ngày sau bài giảng của Phó giáo sư, tiến sỹ nhà giáo ưu tú Trần Đăng Thanh cho cán bộ đảng, đoàn các trường đại học Hà Nội?
Không ai đi so sánh mớ kiến thức chắp vá tạp nham của một đại tá với sự uyên thâm của một thượng tướng con nhà nòi, nhưng quả thực tôi có cảm giác bài viết của ông Nguyễn Chí Vịnh lần này như cô đọng bài giảng của Trần Đăng Thanh; hoặc ngược lại, bài giảng của Trần Đăng Thanh phát triển một cách thô thiển ý tứ của Nguyễn Chí Vịnh.
Dù bài viết lòng vỏng, hay dùng xảo thuật đảo ngược các mệnh đề, nhưng có thể tóm tắt nội dung cốt lõi bài viết của tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng như bài giảng của Trần Đăng Thanh bằng mấy dòng: Phải tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo đảng, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết tranh chấp biển Đông theo đường lối đảng đã vạch sẵn là hợp tác toàn diện với Trung Quốc trên tinh thần 16 chữ vàng và 4 tốt.
Vẫn một văn phong sắc sảo, vẫn một phong thái toát ra uy quyền, vẫn gương mặt đăm chiêu với đôi mắt nhìn có chiều sâu sau cặp kính, vừa như giữ kín điều gì, vừa như xoáy vào người đối diện, hòa hợp với vẻ trầm ngâm như đang vuốt nhọn những ý nghĩ sắp đặt trong đầu không dễ lộ ra theo “ngón nghề” của một nhà tình báo, nhưng hình như Nguyễn Chí Vịnh không còn giữ được những bí mật mà người ta gọi ông là “con người trong bóng tối”.
Mấy năm trước Nguyễn Chí Vịnh phát biểu khá thận trọng, được lóng người, biết im lặng đúng lúc, tránh né một cách ranh mãnh những câu hỏi lắt léo của giới báo chí, và đưa ra những câu nói ngắn gọn giàu hình tượng và biểu cảm như: “ Việt Nam có tất cả để bảo vệ mình!” (*), “ Bất cứ bên nào leo thang tranh chấp chúng tôi không chỉ đứng nhìn!”, “Việt Nam biết làm thế nào để chiến đấu và giành chiến thắng!”. Đặc biệt là lời tuyên bố xúc động như một lời thề về trách nhiệm của mình đối với chủ quyền đất nước: “ Chủ quyền lãnh thổ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, và không thể đánh đổi. Đất đai, sông núi, biển đảo Việt Nam không chỉ là sở hữu của hơn 80 người triệu dân ngày hôm nay, mà quan trọng hơn, bờ cõi ấy đã được cha ông ta hàng ngàn năm qua gìn giữ để lại. Bờ cõi này cũng là sở hữu của các thế hệ người Việt Nam mai sau, là không gian sinh tồn của con cháu chúng ta. Không ai được phép nhân nhượng một tấc trên đất, trên trời, trên biển của Tổ Quốc!”.
Những lời đanh thép ấy đủ để mọi người tin một vị tướng có tâm thức với nước với dân. Có tờ báo nước ngoài đã nhận xét: “Nếu Nguyễn Chí Vịnh là một cò mồi của Trung Quốc thỉ quả thật ông ta ẩn nấp quá tài tình !?”. Không biết có phải để thanh minh không, nhưng có lần Nguyễn Chí Vịnh đã nói: “Cây ngay không sợ chết đứng!”.
Một cái cây ngay hay cong trong bóng tối khó phát hiện, nhưng khi ánh sáng rọi vào thì đôi mắt trẻ thơ cũng có thể nhận biết. Nguyễn Chí Vịnh là “cây ngay” hay “cây cong” có lẽ bây giờ mọi người cũng nhìn thấy qua cách ông thể hiện về vấn đề biển Đông và mối quan hệ với Trung Quốc.
Đảng cộng sản Trung Quốc đã bộc lộ rõ tham vọng bành trướng biển Đông, quyết dùng bạo lực của nước lớn để tranh chấp và chiếm đoạt. Không chỉ các nước trong khu vực và trên thế giới quan ngại và lên án điều đó, mà người Trung Quốc cũng lên tiếng vạch trần thủ đoạn Trung Nam Hải. Tô Hạo, một học giả hàng đầu của Trung Quốc viết trên tờ China Daily: “Đối với các nước Đông Nam Á, Trung Quốc là một đối tác cần cảnh giác. Trung Quốc tăng cường quân sự, tính dân tộc ngày càng tăng, tăng cường đe dọa bằng vũ lực. Tiếng nói diều hâu cực đoan kêu gọi dùng vũ lực ngày càng mạnh!” .
Tô Hạo nhận định: “Chiến lược xoay chiều của Mỹ tới Châu Á giúp các nước Đông Nam Á dịu bớt nỗi lo ngại về Trung Quốc!”.
Trong khí đó Nguyễn Chí Vịnh tung hỏa mù che lấp cho Trung Quốc. Nguyễn Chí Vịnh nói: “Một nguyên nhân khác, thực tế không nằm trên biển mà ở trên đất liền, những nước không ở gần biển Đông, thậm chí ở tận châu Âu, châu Mỹ cũng bàn về vấn đề biển Đông khiến dư luận quan tâm!”.
Chính người Trung Quốc thừa nhận Trung Quốc lả nguyên gây căng thẳng biển Đông. Trung Nam Hải đang bối rối, thì Nguyễn Chí Vịnh nhanh chóng thanh minh cho Trung Nam Hải. Ông đổ lỗi cho các nước châu Âu, châu Mỹ nhúng mũi vào Đông Nam Á, làm biển Đông căng thẳng chứ không phải do Trung Quốc? Không hiểu vì cái cái gì, vì ai mà Nguyễn Chí Vịnh bênh Trung Quốc hơn cả người Trung Quốc như vậy?
Là một nhà quân sự chả nhẽ Nguyễn Chí Vịnh không biết Trung Quốc tuyên bố tăng cường sức mạnh quân sự trên biển Đông, tập bắn đạn thật ở Trường Sa, thiết lập căn cứ đầu đạn hạt nhân thứ hai ở Quảng Châu, vạch đường lưỡi bò chiếm 80% diện tích biển Đông, xây dựng hàng không mẫu hạm, đưa tàu bám riết bãi can Scarborough của Philipin, chiếm Hoàng Sa của Việt Nam và vừa bỏ 1,6 tỷ USD xây dựng cái gọi là “thành phố Tam Sa” cũng trên lãnh thổ Việt Nam ?
Cái chính sách “Thao túng dương hội” của Đặng Tiểu Bình đâu phải kín đáo gì mà che mắt được thiên hạ?
Không ai dám nghĩ Nguyễn Chí Vinh không biết! Nói với một nhà tình báo quân sự như ông về chuyện đó khác gì múa rìu trước mắt thợ! Nhưng Nguyễn Chí Vịnh lại lờ đi và hướng sự chú ý của mọi người sang châu Âu, châu Mỹ, quả thực khó hiểu.
Nguyễn Chí Vịnh nhắc đi nhắc lại là biển Đông không phải của riêng ai, rồi nhấn mạnh “Dù mỗi nước có chủ quyền riêng bất khả xâm phạm, song biển Đông không của riêng ai, và những lợi ích của biển cần được chia sẻ”. Sự chia sẻ này là ngầm ủng hộ “chiến lược 3 bước lấn tới của Trung Quốc: 1- Gây tranh chấp – 2- Gác tranh chấp cùng khai thác – 3 - Chiếm luôn. Nhân nhượng chia sẻ lợi ích như vậy khác nào mở lối cho “sói gửi chân”? Chưa bao giờ tôi thấy Nguyễn Chí Vịnh ấp úng luẩn quẩn về một khái niệm tưởng chừng rất đơn giản như vậy. Ông cố lảng tránh cái đường lưỡi bò Trung Quốc liếm vảo tận thềm lục địa Việt Nam, và Trung Quốc gọi thầu 9 lô dầu khí ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chứ gì?
Tôi còn nhớ, đầu tháng 6 năm nay, trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên, ông nói rất mạch lạc và kiên quyết: “Cách giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, giữa các bên liên quan, công khai minh bạch trong môi trường khu vực và quốc tế, tuân thủ luật pháp quốc tế, cụ thể là UNCLOS 1982 và DOC, đã được nhiều nước thừa nhận và ủng hộ. Nói tuân thủ UNCLOS 1982, trước hết phải tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý”. Vậy mà trong bài viết mới đây trên báo QĐND, ông lại viết là “lợi ích của biển cần được chia sẻ”. Vậy là sẽ chấp thuận bước lấn tới thứ 2 của Trung Quốc trong thủ đoạn "sói gửi chân" trong chiến lược “xâm lược mềm”: Gác tranh chấp cùng khai thác? Biển đảo, mỏ dầu thuộc vùng lãnh hải, chủ quyền của Việt Nam, ông lại đem lợi ích “chia sẻ” với ai?
Nguyễn Chí Vịnh cho rằng, với niềm tin chính trị, với tinh thần hữu nghị truyền thống, tôn trọng lẫn nhau, công khai minh bạch, Việt Nam và Trung Quốc sẽ tìm ra biện pháp phù hợp giải quyết vấn đề biển Đông trên tình đồng chí. Nguyễn Chí Vịnh nói: “Vấn để biển Đông được xử lý thỏa đáng để không ảnh hưởng đến đại cục!”. Câu này vốn phát ra từ cửa miệng của Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân GPND Trung Quốc, nay lại trở thành khẩu khí của tướng Vịnh. Chưa có ai trên thế giới hiểu được đúng nghĩa ‘đại cục” do các vị nhắc đi nhắc lại nó là cái gì?
Không biết căn cứ vào đâu Nguyễn Chí Vịnh nói Trung Quốc có truyền thống hữu nghị với Việt Nam? Phải chăng truyền thống đó có từ gần 2.000 năm trước công nguyên, giặc Ân (nhà Thương) kéo quân sang xâm lược Việt Nam? Phải chăng năm 43 sau công nguyên Mã Viện đã mang quân sang dẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng? Phải chăng gần một ngàn năm Bắc thuộc với hàng chục lần Trung Quốc mang quân xâm lược nước ta? Ông muốn tẩy xóa những bộ mặt Thoát Hoan, Toa Đô, Tôn Sỹ Nghị ư? Lịch sử Việt Nam đã từng bắt bọn xâm lược phương Bắc chui ống đồng, ôm đầu máu quay về. Ông cha ta đã khắc vào vách đá: Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn” - nghĩa là: "Ải cửa Quỷ, Ải cửa Quỷ! (nếu các người sang xâm lược ViệtNam thì) mười người đi chỉ có một người về”. Trong quá khứ Trung Quốc chỉ muốn chiếm đoạt chứ chưa bao giờ muốn hòa hiếu với Việt Nam mà bảo truyền thống hữu nghị? Ngay như Ải Chi Lăng, ải Cửa Quỷ của Việt Nam đặt tên là nơi quỷ vào, thì Trung Quốc gọi là Mục Nam Quan - tức cửa nhìn về phương Nam của đế quốc Đại Hán, đế quốc Mãn Thanh (?!).
Tôi chắc là tướng Vịnh cũng thừa biết rằng, Trung Quốc có tỉnh Quảng Đông, tỉnh Quảng Tây, phía Nam và chếch Đông Nam đặt tên 2 tỉnh Vân Nam, Hải Nam, riêng địa danh Quảng Nam còn để dành đó cho một tỉnh mà chúng coi là dân tộc thiểu số nhược tiểu khi chiếm được Việt Nam (Vọng vân Nam Hải chinh nhược tiểu – Nhìn mây phía biển Nam – biển Nam Trung Hoa - mà chinh phạt các nước nhỏ!).
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, coi Trung Quốc là người anh tin cậy, nhưng Trung Quốc đối xử với Việt Nam ra sao? Có thực sự hữu hảo như anh em môi hở răng lạnh không?
Phải chăng Trung Quốc ép Việt Nam chia đôi đất nước tại Hội nghị Geneva là hữu nghị? Phải chăng Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 1974 là hữu nghị? Phải chăng Trung Quốc “dạy cho Việt Nam một bải học” năm 1979 là hữu nghị?
Không! Những anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung không nói như vậy. Tiếng thét “sát thát” từ Hội nghị Diên Hồng còn âm vang, lời khẳng khái của Trần Bình Trọng “Thà làm quỷ nước Nam, không thèm làm vương đất Bắc” vẫn còn vang vọng.
Hàng chục liệt sỹ ở Hoàng Sa , hàng ngàn liệt sỹ ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc còn réo gọi, quyết không đánh đổi xương máu lấy thứ truyền thống hữu nghị ấy! Không được bắt mọi người tin vào cái “Truyền thống hữu nghị” giả dối của Trung Quốc.
Ông Nguyễn Chi Vịnh nói đã có biện pháp “phù hợp giải quyết vấn đề biển Đông hiện nay”. Biện pháp gì vậy?
Phải chăng đó là khi tàu Trung Quốc xâm nhập vùng biển của Việt Nam, vây bắt ngư dân ta thì gọi là “tàu lạ”? Phải chăng tàu Trung Quốc cắt cáp ngầm dàn khoan thăm dỏ địa chấn của Việt Nam thì gọi là “làm đứt”? Là mặc cho Trung Quốc đầu tư hàng tỷ đô la xây dựng cái gọi là thành phố Tam Sa trên lãnh thổ Việt Nam? Là cho Trung Quốc khai thác Bô-xít Tây Nguyên, thuê rừng phòng hộ đầu nguồn? Phải chăng khi việc thỏa thuận về hợp tác hạt nhân giữa chính phủ Việt Nam và Mỹ đã được công khai trên tờ báo Wall Street, thì theo lệnh ai đó, người phát ngôn Bộ ngoại giao vội vã bác bỏ một sự thật hiển nhiên để vừa lòng Trung Quốc? Ông Nguyễn Chí Vịnh nói giải quyết vấn đề biển Đông “không để ảnh hưởng đến đại cục!”. Và ông Vịnh nói “Hai bên tương đồng” (!?).
Cái “cục” ấy to cỡ nào và hình hài nó ra sao người dân Việt Nam không biết. Nó nằm trong hay ngoài khuôn khổ 16 chữ vàng? Đại cục ấy mang lại lợi ích cho những ai? Tương đồng với những ai? Trên tinh thần “rất minh bạch” ông Vịnh nên cho dân biết.
Trong bài viết của mình vừa qua ông Nguyễn Chí Vịnh bảo “nhân dân được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo ngày càng phát triển” và “Xử lý vấn đề biển Đông là đại sự của đất nước, là việc của tất cả nhân dân!”.
Xin hỏi ông, đảng quan tâm chăm lo như thế nào và phát triển cái gì? Một đất nước tài nguyên phong phú, rừng vàng biển bạc, hòa bình thống nhất gần bốn mươi năm mà tỷ lệ đói nghèo vẫn hai con số mà nói phát triển ư ? Ngân khố quốc gia bị tham nhũng khui rỗng, lạm phát tốc độ phi mã, đồng tiền mất giá, nhiều tầng lớp nhân dân bị 'nghèo hóa' là thành công ư? Một đảng mà ông Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phải thốt lên “ăn hết phần dân còn gì” mà ông bảo quan tâm đến dân ư?
Dù còn nghèo đói, nhưng với lòng yêu nước, dân xuống đường chống Trung Quốc xâm lực biển đảo, ít nhất cũng cho nhà cầm quyền Trung Nam Hải biết rằng nhân dân Việt Nam không dễ bị khuất phục, không dễ muốn xâm phạm lãnh thổ của họ, nhưng lại bị cấm. Chính ông đã hứa hẹn với người đồng nghiệp đồng cấp Trung Quốc là “Chấm dứt các cuộc biểu tình và ngăn chặn không để tái diễn” đúng không? Người dân chỉ muốn làm một nghĩa cử là tổ chức cầu siêu cho những chiến sỹ hy sinh bảo vệ đảo Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa 1988, cầu siêu cho những người lính VNCH đã hy sinh ở Hoàng Sa 1974 cũng bị cấm. Thì làm gì đây thưa ông? Phải chăng chỉ có việc đóng góp tiền bạc, công sức, và khi cần thí đổ máu với một “niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của đảng”?
Người dân đã làm như thế hơn nửa thế kỷ rồi. Năm 1965, khi ông mới 8 tuổi, thì người viết bài này đã gửi trọn niềm tin vào thân phụ ông nói riêng, quân đội và đảng nói chung, cầm súng chiến đấu. Trước tôi, cùng tôi, và sau tôi, hàng triệu người dân cũng với niềm tin ấy. Nhưng bây giờ liệu có thể tin khi một bộ phận không nhỏ của đảng đã tha hóa biến chất, đã thành sâu đục khoét dân ?
Làm sao có thể tin khi là một vị tướng cầm quân, từng tự hào là đi lên từ “anh binh bét”, mà ông lại nói: “Lực lượng quốc phòng không tham gia giải quyết xung đột trên biển Đông?”. Thế thì ai bảo vệ Tổ quốc? (*)
Ông đánh tráo khái niệm để lảng tránh trách nhiệm? Tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, lãnh hải Việt Nam chứ đâu phải trên vùng biển đang tranh chấp thưa ông !
Nhiệm vụ thiêng liêng nhất của người lính là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ Quốc. Có toàn vẹn lãnh thổ mới nói đến hòa bình. Không được lật ngược cặp phạm trù đó. Muốn bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình phải nhớ nằm lòng là độc lập dân tộc gắn liền với tự chủ và quyền tự quyết không bị chi phối, lệ thuộc bất cứ nước nào, dù là nước lớn, siêu cường.
Nguyễn Chí Vịnh cũng như các vị lãnh đạo khác rất hay dùng mệnh lệnh đề phải thế này thế kia, và “đã vạch ra, đã chỉ ra”. Các vị cũng chỉ là những con người bình thường, thậm chí có người rất tầm thường, ban lãnh đạo đang có cả một bộ phân không nhỏ thoái hóa biến chất như một bầy sâu, nên các vị hãy khiêm tốn một chút. Hoàn toàn không nên cái gì đã “vạch ra”, “chỉ ra” cho dù chỉ có lợi cho lòng tham trong mưu đồ bá quyền bành trướng; nhưng có nguy cơ khó cho giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ, bất lợi cho độc lập-tự do của dân tộc, phương hại hạnh phúc của nhân dân mà bắt dân cứ phải tuân thủ răm rắp?! Trên thế giới này không có chính thể anh minh dân chủ nào dùng những mệnh đề đó với dân.
Hôm trước tôi đã có đôi lời với “anh binh bét”. Nay tôi lại có vài lời chân thành với anh trên tinh thần đồng đội nói thẳng như đường ngắm. Mong anh cùng chia sẻ không riêng tôi mà với tâm trạng, suy cảm lòng dân nước Việt. Lính mà, anh!
M.D
-------------------
(*) - Tuyên bố của Bộ ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ngày 6-3-1979: “Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”. ----------------
+ Bài liên quan:
>http://bvbong.blogspot.com/2012/12/may-loi-giai-bay-voi-anh-binh-bet.html
Đào Tuấn - Cuộc tập kích của lề trái
Blog Đào Tuấn
Cú “pháo hạm”, có lẽ là “thông điệp” mà lề trái nhắn tới độc giả: Muốn đọc cướp hiếp giết, hoặc “tin đầu lâu” xin mời lên báo. Muốn biết sự thật thì trèo tường vào Net.
Anh Ba Sàm, dưới cái tên cúng cơm Nguyễn Hữu Vinh, đeo kính trắng ngồi trên bàn chủ tọa, tay trái thủ máy ghi âm, tay phải lướt camera. Phía dưới, nhà văn Phạm Viết Đào nhát lại quay xuống giơ máy ảnh bấm tách tách. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, ngồi khoanh tay, khi gật gù, lúc gãi mũi, và sau đó thuyết trình về câu chuyện “rác và kim cương”. Luật sư Trần Vũ Hải thì 3 lần giơ tay “xin micro”, và còn định xin tiếp để cướp diễn đàn.
Từ lâu, truyền thông xã hội, mình cứ thích gọi là “lề trái”- cho máu, dù phải chơi trò đổi IP hay “nhảy tường Olympic”, đã ép lề phải trong vấn đề đạo đức của người truyền tin, qua Hội thảo vừa rồi, chính thức nhờ RED đóng cho một cái dấu đỏ, để tập kích “lề phải” qua một cuộc Hội thảo được xin phép đàng hoàng.
Cái đạo đức của người truyền tin là ở chỗ trong khi “lề trái” dùng tên thật để bình luận, thì không ít lề phải lại dùng bút danh, chẳng hạn trong việc đưa tin.
Đây là những “phát súng” của lề trái mà mình gom ra. Thôi thì cứ nêu ra đây và không bình luận.
Ba Sàm: Có một ví dụ cho thấy sự thụt lùi của báo chí. Năm 2007, Tuổi trẻ có một bản tin về các cuộc biểu tình phản đối TQ, nhưng bây giờ thì không.
Chưa kể, có những tin bài đã lên mạng, vì lý do nào đó không được tồn tại nữa, nhưng lại bị âm thầm gỡ bỏ, hầu như không hề được thông báo, giải thích lý do, độc giả truy cập vào không được. Làm vậy vừa thiếu tôn trọng độc giả, vừa thiếu áp lực trách nhiệm lên chính nơi đã “gây ra” việc phải gỡ bỏ tin bài đó. Ví dụ có rất nhiều, nhưng gần đây nhất là bài trên báo Thanh tra: “Đánh đấm” mạnh, ông Trần Nhung bị trả thù”, hiện còn thấy được trên mạng là phải nhờ thủ thuật tìm kiếm.
Chưa kể có tới 2 ví dụ về việc báo chính thống phải cải chính những thông tin trên blog.
Nhà văn Phạm Viết Đào: Xuất hiện rất nhiều cây viết, chủ nhân của các cư dân mạng nổi tiếng hơn cả nghề tay phải của mình, họ là nhà báo nhưng người đọc biết nhiều về họ hơn nhờ viết blog chứ không phải viết báo; có nhà báo bỏ cả nghề báo để viết blog; có ông chẳng liên quan gì đến nghề báo tự dưng nhảy ra làm trang mạng có sức lôi cuốn người đọc, thách thức các tổng biên tập báo chính thống khiến cho Huy Đức một nhà báo kiêm một blogger có tiếng đã phải thốt lên: Báo chính thống nói chuyện Basam; Còn Basam lại đưa chuyện chính thống…Rất nhiều các hãng thông tin nước ngoài một khi tìm hiểu dư luận xã hội về một vấn đề nào đó lại thường tìm đến các blogger hơn là tìm đến những nhà báo, nhà quan sát chính trường có nhãn mác, bằng cấp và giấy phép hành nghề. “Làm sao để các nhà báo được sống hết mình với tin bài của mình như các trang mạng xã hội, có như thế báo chí mới góp phần hữu ích vào đời sống xã hội”.
Nhà báo Mạnh Quân:
Nếu chỉ quan tâm, đọc báo trên báo in, báo online, truyền hình…của nhà nước là không đủ…Có rất nhiều thông tin từ facebook, từ các diễn đàn, trang web, blog cá nhân…hữu ích cho công việc của tôi mà nhiều khi, đọc báo chính thống, tôi không có được hoặc có chậm hơn. So sánh với các blogger bình thường khác thì theo tôi, các nhà báo thường cũng có xu hướng kiềm chế, kiểm soát nội dung mình. Với cá nhân tôi và có thể với không ít nhà báo khác, việc chủ động tham gia, tham gia thường xuyên vào TTXH, vào FB…đặc biệt là với FB hay blog…thì đó thực sự còn là công cụ để giữ được “lửa nghề”. Có những điều anh không thể nói được trên báo thì anh nói được trên FB, blog của mình, giữ được quan điểm, nói lên được nhiệt tâm của mình.
Đoạn này là của mình:
“Một bản tin trên BBC dưới tựa đề “Truyền thông VN im lặng về biểu tình”. Đây là những gì mà BBC đã viết: Một ngày sau khi các cuộc biểu tình chống Trung Quốc diễn ra ở cả Hà Nội và TP HCM, báo chí trong nước hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Hai cuộc biểu tình ở các thành phố lớn nhất Việt Nam có sự tham gia của hàng trăm người, cho dù bị giải tán một cách nhanh chóng. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của truyền thông nước ngoài, với hầu hết các đài báo quốc tế lớn đều có tin, bài. Thế nhưng ngay ở trong nước, không thể tìm thấy một dòng nào về các cuộc biểu tình”.
“Lòng tự trọng khiến tôi tin những người làm báo ở Việt Nam cảm thấy bị tổn thương. Bởi với bất cứ lý do gì, báo chí đang mặc nhiên coi như không nghe, không biết, không thấy sự kiện người dân xuống đường phản đối Trung Quốc. Nếu báo chí là người chép sử của hiện tại, thì với cách thức chúng ta im lặng ngày hôm nay, 100 năm sau, những thế hệ con cháu sẽ lại gặp những khoảng trống trong lịch sử?”
“Báo chí hoặc im lặng, hoặc đưa ra những bản tin 200 chữ không có thông tin, sẽ càng chỉ khiến bạn đọc tìm đọc những sự kiện đó trên Internet, trên truyền thông xã hội. Bởi trong nhiều sự kiện, mà điển hình là sự kiện 9-12, blog đã thay thế báo chí ngay trong chính vai trò thông tin của mình”.
Anh Ba Sàm đầy tinh thần lạc quan đến xuất một mô hình “Đặc khu thông tin”, như “đặc khu kinh tế”. Đó là “Khu vực trung dung giữa báo chí chính thống và TTXH. Ở đó có sự theo dõi, quản lý nhất định của cơ quan chức năng, nhưng không cần thiết chặt chẽ như với báo chí hiện nay. Ở đó thông tin cung cấp “thoáng” hơn báo chí chính thống nhưng sẽ cẩn trọng hơn so với TTXH. Có những thông tin “nhạy cảm” của nhà nước, không tiện đưa lên báo (có thể tránh đụng chạm quan hệ ngoại giao chẳng hạn, vì mang tiếng là báo nhà nước), nhưng lại rất cần phổ biến tới người dân, để thử nghiệm hay tận dụng tiếng nói công luận. Có những vấn đề cần lắng nghe nguyện vọng, sáng kiến của dân, nhưng lâu nay vẫn lúng túng khi cần tổ chức thu thập qua báo chí “chính thống”.
TS Nguyễn Quang A thì nói về câu chuyện Thông tin trên các mạng truyền thông xã hội như Facebook, blog… “thì rác cũng có mà kim cương cũng có”. Thế nào là rác? Anh Ba: “Các tòa báo, trước áp lực “mất khách”, và thậm chí cả soi lưng từ TTXH, họ phải bươn chải hơn để tồn tại, tìm đủ mọi cách lách, và câu khách bằng thị hiếu tầm thường, gây tác động làm méo mó thêm từ môi trường báo chí cho tới đời sống văn hóa, tinh thần của cả xã hội”.
Còn nhiều chi tiết nữa mà một người 100% lề phải như mình thậm chí không dám chép trên blog.
Cú “pháo hạm”, có lẽ là “thông điệp” mà lề trái nhắn tới độc giả: Muốn đọc cướp hiếp giết, hoặc “tin đầu lâu” xin mời lên báo. Muốn biết sự thật thì trèo tường vào Net.
Note: Riêng Lao Động cũng được dành cho một dòng, nghĩ cũng đau: Ở VN cũng đã có báo thử nghiệm (mô hình blog trên báo), nhưng không rõ tiêu chí, như VOV News, còn Lao Động cũng có nhưng … như không.
Ảnh: Ba Sàm mượn diễn đàn Red “quăng bom” lề phải.
Trần Vinh Dự - Lý thuyết sổ hưu của Đại tá Thanh
Trần Vinh Dự
Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng (anhbasam.wordpress)
Trong những ngày cuối năm 2012 này, một nhân vật bình thường của Việt Nam bỗng trở nên nổi tiếng/tai tiếng. Bài phát giảng được thu âm của ông Trần Đăng Thanh về chính trị và quốc phòng cho lãnh đạo các trường đại học ở Hà Nội không những trở thành một chủ đề nóng được đem ra bình luận ở khắp nơi trong số các nhóm người Việt trong và ngoài nước mà còn được Asia Times đưa tin với tựa đề giật gân “các bí mật quốc gia bị tiết lộ ở Việt Nam”.
Theo giới thiệu trong băng ghi âm, người giảng/báo cáo là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng. Người nghe là các lãnh đạo đảng ủy khối, lãnh đạo đảng, tuyên giáo, công tác chính trị, quản lý sinh viên, đoàn, hội thanh niên các trường đại học - cao đẳng Hà Nội. Nội dung chính của bài giảng là về tình hình Biển Đông và chính sách của nhà nước Việt Nam về Biển Đông.
Ông Trần Đăng Thanh tỏ ra khá am hiểu về tình hình tranh chấp trên Biển Đông. Ông khẳng định Trung Quốc là nước có nhiều hành động xâm lấn “hơn”. Ông cho rằng “Nhiều hơn là Trung Quốc. Một là họ đẩy mạnh tuyên truyền Biển Đông là của Trung Quốc tạo dựng hành lang pháp lý với quốc tế, đấy là việc làm đầu tiên của họ. Thứ hai là đẩy mạnh đầu tư nâng cấp vùng chiếm đóng đặc biệt là Hoàng Sa […]. Thứ ba là ngăn cản phá hoại các hoạt động kinh tế trên Biển Đông của ta. Thứ tư là đẩy mạnh đánh bắt thủy sản tạo ra vùng đánh bắt truyền thống. Thứ năm, thăm dò, khảo sát, mời thầu vùng tài nguyên trên biển của chúng ta. Thứ sáu, tìm mọi cách để hạ đặt giàn khoan trên biển của ta nếu ta không ngăn chặn kịp thời. Thứ bảy là chiếm bãi cạn của ta trong trường hợp ta không có người chốt giữ, nếu mà ta sơ xểnh cái là nó cướp luôn. Và đích cuối cùng là độc chiếm Biển Đông.”
Tuy nhiên, lý thuyết mà Đại tá Thanh đưa ra liên quan đến cách đối phó với Trung Quốc, hay nói cách khác, là chính sách của nhà nước Việt Nam về Biển Đông, cái mà ông gọi “là cốt lõi nhất để định hướng cho các thầy và các thầy lại truyền lửa cho sinh viên đấy” thì lại rất hoang đường.
Không chỉ chĩa mũi dùi vào Trung Quốc
Đầu tiên, ông cho rằng về mặt nhận thức chung, thì Việt Nam không “được phép là chĩa mũi dùi vào một phía nào đó mà hiện nay thiên hướng là cứ tập trung vào mỗi ông Trung Quốc”. Ông cho rằng nếu chúng ta chỉ tập trung vào mỗi một mình Trung Quốc là hoàn toàn chưa đúng, chưa chính xác mà phải đặt trong mối quan hệ tổng thể Việt Nam với Trung Quốc, Việt Nam với Mỹ, và Việt Nam với các nước ASEAN.
Lý do theo ông Thanh là, mặc dù Trung Quốc trong suốt lịch sử thời phong kiến đã có tới “trên dưới hai chục lần các triều đại phong kiến Trung Quốc đã từng xâm lược Việt Nam”, thế nhưng “trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa.”
Ngược lại, Phó Giáo sư Thanh, người không biết nói tiếng Anh, cho rằng nước “Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả. Phải nói rõ luôn. Nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện ‘thả con săn sắt, bắt con cá rô’. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha.” Ông khuyến cáo “Để thay đổi Việt Nam, Mỹ cần phải dựa vào kinh tế và chất xám của thế hệ trẻ Việt Nam được học tập và đào tạo tại Mỹ và phương Tây […] Cho nên một trong 9 mũi tiến công là người Mỹ đang thực hiện diễn biến hòa bình trên lĩnh vực giáo dục đào tạo của chúng ta.”
Ba không bốn tránh
Về mặt nguyên tắc để xử lý vấn đề Biển Đông, ông Thanh đưa ra 7 nguyên tắc mà ông gọi là “3 không, 4 tránh”.
Ba không, theo ông là thứ nhất không được mất là chủ quyền và quyền chủ quyền. Thứ hai không được mất là môi trường hòa bình, và thứ ba không được mất là mối tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
Ông cho rằng nếu hai cái “không” đầu tiên mâu thuẫn với nhau, thì “phải ưu tiên tối thượng là giữ được môi trường hòa bình” - tức là ông đặt hoà bình lên trên việc mất chủ quyền. Lý do theo ông Thanh là nếu “để xảy ra chiến tranh, xin thưa với các đồng chí vất vả lắm”.
Biện minh cho cái “không” thứ ba, ông lập luận “lịch sử giao cho dân tộc chúng ta phải sống bên cạnh cái nước ta bảo họ tư tưởng nước lớn, không phải tư tưởng, họ là nước lớn thật sự. Nói tư tưởng thế nào được, họ là nước lớn thật sự. Dân số của họ là 1 tỷ 354 triệu người dân, ta có 87 triệu, họ là nước lớn thật sự”. Vì thế, ông cho rằng “cho nên ta phải học tập cha ông chúng ta”. Ông dẫn ra câu chuyện của nhà Lê sau khi chém Liễu Thăng vẫn phải “sang cống nạp để làm sao hòa hiếu giữ cho muôn đời không phải chiến tranh”.
Bốn cái tránh, theo Đại tá Thanh là (1) tránh đối đầu quân sự, (2) tránh đối đầu toàn diện, (3) tránh bị bao vây cô lập, và (4) tránh lệ thuộc nước ngoài. Ông không đưa ra giải thích nào về việc tại sao phải có 4 cái tránh này.
Kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng phản đối chính thức
Theo Đại tá Thanh, việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông là phải “kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích và phải kiên định, đấu tranh bằng biện pháp hòa bình.” Đó là các nguyên tắc chung, nhưng các hành động cụ thể là gì?
Ông đưa ra hai ví dụ. Ví dụ đầu, theo ông, là “hành động đấu tranh kiên quyết, kiên quyết đỉnh cao”. Đó là việc “đồng chí Tổng Bí thư của chúng ta sang tận bên kia nói rõ, và nói rõ với Hồ Cẩm Đào rằng: Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lý, các đồng chí không nhất trí, tôi với các đồng chí cùng ra tòa quốc tế. Tòa án quốc tế xử lý như thế nào thì tôi chấp nhận như thế. Tổng Bí thư ta đã khẳng định như vậy đấy.” Ông cho rằng “như vậy là rất kiên quyết rồi, không có úp mở gì cả, ta không có né không có tránh gì cả.”
Ví dụ thứ hai mà Đại tá Thanh đưa ra là “vừa rồi cuộc đấu tranh mới nhất là Bộ Quốc phòng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc đã trả lời rất rõ: vấn đề đó là của Việt Nam.”
Ông Thanh không đưa ra khuyến nghị nào hướng dẫn cho sinh viên, thanh niên tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.
Không được cho sinh viên biểu tình
Cuối phần trình bày, ông Thanh xoáy vào việc quản lý sinh viên của lãnh đạo các trường đại học. Theo ông, “bất cứ một quốc gia nào cũng thế, lực lượng thanh niên, lực lượng sinh viên là đội ngũ trí thức, là rường cột của quốc gia.” Và vì thế, “các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề này để […] gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội”.
Theo ông Thanh, chỉ có một số bộ phận nhỏ sinh viên tham gia vào các hoạt động biểu tình “chứ đại bộ phận học sinh, sinh viên của chúng ta là tốt. Và số này rất ít thôi nhưng nó đang lợi dụng vấn đề này để mà gây rối, yêu nước nhưng mà phải đúng lúc.”
Ông còn mỉa mai những thanh niên tham gia biểu tình rằng “tôi bảo với các đồng chí, mấy vị biểu tình ấy viết đơn tình nguyện ra Hoàng Sa, Trường Sa đi xem có đi không hay lúc đó lại kêu em đau khớp, kêu em đau dạ dày.” Ông cũng ám chỉ các sinh viên này được ai đó cho tiền để tham gia biểu tình gây rối khi nói rằng “nhưng nó cho mấy chục nghìn để thế nọ thế kia.”
Đại tá Thanh cũng doạ lãnh đạo các trường rằng “nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp trước hết khuyết điểm thuộc về các đồng chí hiệu trưởng và ban giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về bí thư đảng ủy - phòng quản lý sinh viên của trường đại học đó. Nếu để cho công an thành phố Hà Nội hoặc v..v… người ta giữ sinh viên của mình, người ta điện mời thầy nọ mời thầy kia, ở trường nọ ở trường kia đến nhận sinh viên của mình thì đấy là khuyết điểm của chúng ta”.
Lý thuyết sổ hưu của Đại tá
Xâu chuỗi các quan điểm của Đại tá Thanh qua phần trình bày của ông, có thể thấy một “lý thuyết” mà ông thực sự tin vào. Đó là:
Thứ nhất, tranh chấp ở Biển Đông không chỉ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có nhiều nước khác tham gia vào cuộc cờ này. Nếu không khéo, Việt Nam sẽ bị lợi dụng để trở thành quân bài của nước khác.
Thứ hai, trong số các nước tranh chấp, mặc dù Trung Quốc là bên có nhiều hành động xâm lấn, nhưng họ vẫn là bạn tốt. Họ đã từng giúp đỡ Việt Nam một cách thực lòng trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (ông quên không nhắc tới việc Trung Quốc đánh Việt Nam hồi năm 1979). Khác với phương Tây (mà cụ thể là Mỹ), là những nước “chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta”, đã từng gây tội ác ở Việt Nam, và “tội ác của họ trời không dung, đất không tha”. Thế nên không bao giờ được ngộ nhận và ngả theo Mỹ trong vấn đề Biển Đông.
Thứ ba, có vẻ như ông tưởng rằng với tư cách là bạn tốt, nếu Việt Nam cứ mềm mỏng thì Trung Quốc sẽ không làm quá. Mặc dù họ vẫn có hành động xâm lấn nhưng có nhiều khả năng Trung Quốc sẽ không tấn công quân sự để chiếm các đảo đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam. Đây cũng là đúc kết lịch sử của ông về việc các triều đại phong kiến của Việt Nam luôn nhũn nhặn với Trung Quốc, ngay cả khi chiến thắng vẫn nộp cống và xưng thần. Đó là cách để tránh chiến tranh.
Thứ tư, Trung Quốc là nước lớn. Trung Quốc quá mạnh và Việt Nam quá yếu. Vì thế cho dù Việt Nam không muốn nhẫn nhịn thì cũng không được. Khi Trung Quốc “đá” thì Việt Nam phải “né” chứ không được đá lại. Nếu đá lại, Việt Nam sẽ phải đối mặt với chiến tranh, mà nếu “để xảy ra chiến tranh, xin thưa với các đồng chí vất vả lắm”.
Thứ năm, kết hợp các yếu tố trên, cái tốt nhất mà Việt Nam có thể làm là đấu tranh với Trung Quốc trên danh nghĩa tình đồng chí, và tranh luận thẳng thắn với Trung Quốc trên danh nghĩa tình đồng chí. Ông đưa ra ví dụ về chuyện Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói với ông Hồ Cẩm Đào để chứng minh sự quyết liệt của Việt Nam. Đương nhiên ai cũng hiểu Trung Quốc không bao giờ chịu ra toà án quốc tế. Vì vậy đưa ra toà án quốc tế không phải là cách có thể thực hiện được.
Thứ sáu, những kênh đấu tranh khác như biểu tình là không thể chấp nhận được. Ông không nói rằng biểu tình sẽ làm phật ý Trung Quốc nhưng ông cho rằng biểu tình sẽ gây nguy hiểm đến an ninh chính trị, để các thế lực chống phá lợi dụng lật đổ chế độ.
Theo ông, việc chống biểu tình vì thế là một việc rất thiết thực. Thiết thực vì nó ảnh hưởng đến chính miếng cơm manh áo của những người như ông và lãnh đạo các trường học, những người đang có hoặc sẽ có “sổ hưu”. Ông nói “Bảo vệ tổ quốc Việt Nam thời XHCN hiện nay có rất nhiều nội dung, trong đó có một nội dung rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây.”
Lửa thiêng hay thuốc tê
Lý thuyết của Đại tá Thanh thể hiện sự lạc hậu về tư tưởng. Ông vẫn còn tư duy thời Chiến tranh lạnh khi nhận xét về chính trị thế giới, về diễn biến hoà bình, về tình đồng chí giữa Việt Nam và Trung Quốc… Lý thuyết này ít nhiều mang tâm thế của một kẻ nô lệ trong quan hệ với Trung Quốc khi cho rằng Việt Nam không được xử sự theo kiểu “vong ân bội nghĩa”.
Nó cũng thể hiện sự bạc nhược của một người sắp đến tuổi lấy sổ hưu. Bạc nhược ở chỗ nó thừa nhận gần như bế tắc trong chiến lược đối phó với Trung Quốc. Nó không đưa ra được bất cứ cách phản ứng thông minh nào hơn là các phản đối chính thức theo kiểu tình đồng chí. Nó cũng bạc nhược ở chỗ lo sợ các hoạt động biểu tình của sinh viên, thanh niên, trí thức (dù ông có nói đó chỉ là một bộ phận nhỏ), vì lo các cuộc biểu tình này sẽ hướng mũi dùi vào nhà nước, và vì thế gây nguy hại tới “cái sổ hưu” của những người như ông.
Thế giới đã thay đổi và đang tiếp tục thay đổi mau chóng. Quan hệ chính trị giữa các nước hiện nay không còn dựa nhiều vào ý thức hệ và tình đồng chí như hồi thế giới bị phân làm hai cực. Các lợi ích chiến lược giữa các nước hiện nay đan xen chồng chéo vào nhau, và các bên đều hành động vì lợi ích cao nhất của đất nước mình. Câu chuyện phương Tây đang thực hiện “diễn biến hoà bình” để lật đổ chế độ cộng sản ở nước khác vì lý do ý thức hệ là câu chuyện tưởng tượng hoang đường.
Trong một môi trường chính trị như vậy, lối tư duy thời Chiến tranh lạnh trước đây không còn thích hợp nữa. Nếu cố tình sử dụng lối tư duy này thậm chí có thể gây ra những sai lầm và tổn thất tai hại cho đất nước.
Đại tá Thanh chỉ là một giáo viên giảng dạy chứ không phải là một nhà hoạch định chính sách. Phát ngôn của ông cũng không mang tính đại diện cho đường lối và chủ trương của nhà nước Việt Nam. Vì thế, bài giảng này không có cái gì là bí mật quốc gia giống như Asia Times giật tít.
Thế nhưng nói như thế không phải là nó không nguy hiểm. Vì nó là bài giảng mang tính định hướng tư tưởng cho nhóm người mà ông Thanh gọi là “nguyên khí quốc gia” - tức là các lãnh đạo của các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam. Những người mà, theo cách nói của ông Thanh, sẽ có vai trò truyền lại “lửa” cho học sinh sinh viên của nước nhà. Có vẻ như lý thuyết và tư tưởng của ông Thanh không phải là ngọn lửa thiêng giúp thanh niên, sinh viên, và trí thức phấn khởi đóng góp vào xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đổi lại, nó giống như một liều thuốc tê làm tê liệt mọi sự hứng khởi và tin tưởng, nó góp phần tạo ra một bầy cừu, một bầy cừu chỉ biết im lặng kể cả khi phải sắp hàng đi vào nhà máy giết mổ.
Phạm Kỳ Đăng - Nên theo Việt Nam
Phạm Kỳ Đăng
Bài nói chuyện của đại tá Trần Đăng Thanh tiết lộ khá nhiều về suy nghĩ âu lo kín đáo của giới lãnh đạo tầng cao nhất, và nếp tư duy này không chút mấy thay đổi từ khi những người cán bộ tuyên huấn tiếp thu học thuyết giáo điều về giai cấp và chuyên chính vô sản, ở phạm vi trong nước được nâng lên thành luận lý lớp lang từ thời chiến tranh lạnh. Lối tư duy bùng nhùng trong những phạm trù vón cục đơn nguyên – tương phản như “ta > <địch” , “thù > < bạn”, “trắng> < đen”, “chính nghĩa>
Trong quá khứ, khi xảy ra những tình huống cần có tiếng nói biểu lộ độc lập và chủ quyền dân tộc như dạo tháng Mười năm 1962, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bỏ phiếu ủng hộ Trung Quốc xua quân đội nước này tràn qua biên giới Ấn Độ, và đớn đau thay gửi công hàm tán thành Trung Quốc tuyên bố hải phận (1958), cũng như sau này (1974) không phản đối chính quyền Mao Trạch Đông – Chu Ân Lai đánh chiếm Hòang Sa của Việt Nam Cộng hòa. Vào năm 1978, CHXHCN Việt Nam tán thành LBCHXHCN Xô Viết đổ quân vào Afghanistan. Trong khi cố công loay hoay xác định kẻ thù chiến lược, nhà nước Việt Nam nhiều khi cực đoan coi “thù của thù” là bạn, từng giao hảo với nhiều nhà nước độc tài ngang ngược bị cô lập trên thế giới. Ngày nay Việt Nam có nguy cơ tự đẩy mình xuống đứng chung chiến hào với nhiều nhà nước khét tiếng như CHDCND Triều Tiên, Haiti, Cuba, Iran. Cũng như CHDCND Trung Hoa, nhà nước Việt Nam không có đồng minh thực sự. Việt Nam đang lẻ loi đứng đơn thương độc mã hơn bao giờ hết.
Chính quyền Mỹ cũng như nhiều nước khác thực hiện chính sách đối ngoại xuất phát trước hết từ quyền lợi dân tộc của họ. Nước Mỹ, trong quá khứ, đặt chân đến Việt Nam trong bối cảnh viễn chinh đối đầu với nguy cơ lan rộng của phong trào cộng sản. Phát động cuộc chiến Việt Nam, nhà nước Mỹ, cho đến khi bỏ rơi miền Nam và Việt Nam, đã để lại gánh nợ máu xương với nhân dân hai miền. Ở thời điểm cuộc chiến đến độ cao trào, một phong trào chống chiến tranh đòi quân đội Mỹ rút về nước lan rộng khắp nơi.
Chính quyền Mỹ từng bị thao túng bởi những lực lượng hiếu chiến, và cao trào chống cộng quá khích, ngụy tạo xung đột, gây đảo chính hay đưa quân tham chiến, gây đổ máu vô nghĩa ở nhiều nước, trên xương máu của cả con em mình. Người dân Mỹ không phải hôm nay đây mới biết chính phủ của họ chuốc thù chuốc oán quá nhiều.
Nhưng những gì nước Mỹ mang lại cho văn minh nhân loại không đơn thuần là những giá trị đong đếm tầm thường mà một ông đại tá ngạch tuyên huấn có thể trông thấy được. Nước Mỹ đóng vai trò lớn trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, và sau đó đi đầu trong cuộc chiến khuất phục chế độ tòan trị thắng phát xít nhưng tàn bạo không kém. Văn hóa Mỹ, giá trị Mỹ ảnh hưởng lên nhiều quốc gia. Người Mỹ gieo mầm và đỡ đầu cho nền dân chủ tại Đức và Nhật – những nước có quá khứ phát xít và quân phiệt, tạo điều kiện để các quốc gia này đi tới hùng cường. Trong lòng nước Đức hôm qua, trong khi nhiều người ác cảm với Mỹ kéo xuống đường ra mặt phản đối chiến tranh Việt Nam, chống cuộc can thiệp quân sự của Mỹ tại Irắc, biểu tình đòi Mỹ ký Thỏa thuận về Môi trường và Khí thải, thì cũng vẫn như xưa, hôm nay vẫn có nhiều hiệp hội, nhiều tổ chức chào đón, bênh vực nước Mỹ nhiệt thành. Có người bạn Đức nói với tôi rằng thế giới cần có nhiều nước Mỹ như vậy, bởi nếu châu Âu bị một nhà nước Hồi giáo cực đoan hoặc một quân đội khủng bố tấn công bằng quân sự, ai sẽ lại đứng ra bảo vệ châu Âu, nếu không phải là Mỹ? Đấy, thái độ và tình cảm của người dân ở nhà nước dân chủ phức hợp như vậy, mà thế đâu phải là dở. Và ngay tại nước Mỹ, nhân sĩ trí thức, sinh viên cũng như công dân ở mọi tầng lớp chẳng đã hơn nghìn lần xuống đường phản đối chính quyền nước họ vì thực thi những chính sách sai trái.
Tuy nhiên trên tinh thần đề cao dân chủ, nhà nước Mỹ luôn có đồng minh tin cậy. Dù có nhiều khác biệt trong thái độ của các lực lượng đảng phái, Liên minh châu Âu, Nhật, và nhiều nước trong khối Asean sẽ đứng cùng với Mỹ mà không cần gì đến những thứ bùa ngải làm con tin kiểu Mười sáu chữ vàng và Bốn tốt.
Nhà nước Trung Hoa hiện nay đang thực thi một chủ nghĩa dân tộc bá quyền không chia sẻ lợi ích gì với xóm giềng và mọi quốc gia trên thế giới. Với đà tăng trưởng kinh tế vượt bực, Trung quốc xây dựng một quân đội hùng mạnh, đáng tiếc không góp phần vào sự ổn định khu vực. Mũi tấn công quân đội chĩa hết sang các quốc gia lân bang kèm theo những yêu sách tréo ngoe về chủ quyền lãnh thổ, trong đó mũi độc nhất hướng tới Việt Nam.
Ngay từ khi thành lập nhà nước CHDCND Trung Hoa, chính quyền này đã gầm ghè ăn cướp, sách nhiễu với mọi nhà nước có chung biên giới. Tuy vậy người khổng lồ Trung quốc hôm nay luôn hở sườn, luôn lộ gót asin dù có hiện đại hóa quân đội mấy đi chăng nữa, bởi Trung quốc không có đồng minh. Cả một biên giới dài rộng hàng nghìn cây số tiếp giáp Mông Cổ, Nga và Ấn Độ dư thừa địa hình để cho đối phương lập căn cứ cách vài trăm km có thể tấn công Bắc Kinh trong chớp nhoáng. Về đối ngoại, nhà nước Tàu hung hăng ngang ngược. Chính sách đối nội thù địch với nhân dân, áp bức nhiều sắc tộc, nên tiềm ẩn nguy cơ xung đột và nội chiến. Nguy hiểm hơn, trong ý thức người dân Trung Hoa đang say sưa với tinh thần dân tộc được kích động giải tỏa ẩn ức, chưa xuất hiện những luồng suy nghĩ phê phán độc lập. Lớp nhân sĩ trí thức Trung Hoa, thời hiện đại vốn đã yếu ý thức nhân văn, nay thiếu vắng hẳn tiếng nói mạnh mẽ lên án nhà cầm quyền ngạo mạn ăn cướp Hoàng Sa -Trường Sa hay đưa ra yêu sách độc chiếm biển Đông.
Chẳng lẽ bao bà mẹ trẻ em chết trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979 không đáng được nhắc tới như nhiều nạn nhân của đợt ném bom B52 vào Hà Nội, trong những ngày kỷ niệm “Điện Biên Phủ trên không” rầm rộ trên báo chí? Hồn tử sĩ Việt Nam trên mồ biên giới đòi cơn chẳng thể là gì khác hơn là yêu cầu thanh tóan ngay cho xong ơn huệ?
Luẩn quẩn trong chiến lược xác định bạn thù, Việt Nam đã bỏ qua nhiều vận hội lịch sử. Sau khi từ chối lần đầu gia nhập khối Asean, Việt Nam tự cho là bên thắng cuộc, bần cùng phải cầu hòa ở Thành Đô, bất đắc dĩ nhận thấy nhu cầu hòa nhập.
Câu hỏi đặt ra sẽ là Việt Nam cần hội nhập vào thế giới, hay thế giới cần hội nhập vào Việt Nam?
Trong bối cảnh ngày càng bị chèn ép về chủ quyền và lãnh thổ, chúng ta không nhất nhất phải kích động và lôi kéo theo lề lối “theo ai/chống ai”, bởi vị thế với nền kinh tế èo uột không đủ sức cho Việt Nam hành xử phi thường như vậy. Vấn đề mấu chốt là Việt Nam hôm nay rất cần đồng minh thực thụ. Các nhà lãnh đạo thường xuyên tuyên bố Việt Nam muốn kết bạn giao hảo với mọi người cũng như đang nỗ lực xây dựng nhiều mối quan hệ, như họ nói, mang tầm chiến lược. Nhưng e rằng mối giao hảo nặng thù tạc này thực ra chỉ chiến lược với nhà nước Việt Nam thôi. Các quốc gia dân chủ, thực tâm đều rất mong một Việt Nam giàu mạnh có vị thế ở Đông Nam Á, tuy rằng cũng nói về tầm chiến lược, thực tế không một ai đứng ra che chắn, vì họ nhìn Việt Nam e dè như nhìn chính quyền Trung Quốc, chừng nào các nhà nước này chưa đại diện cho ý chí rất khác nhau của mọi tầng lớp và thành phần nhân dân của họ. Chúng ta thử nghĩ mà xem, nhà nước nào trên thế gian này sẽ tôn trọng nhà nước Việt Nam nếu chính nhà nước Việt Nam không tôn trọng người dân để cho họ tự do bầu cử hoặc xuống đường biểu tình vì chủ quyền lãnh thổ, nếu một nhà nước ra khỏi nhà không có vị thế đàng hòang của người chính chủ. Cave không chính danh có thể đi lang chạ khắp nơi, đáng buồn chẳng ai nặng lòng yêu cave cả. Cho nên tốt nhất chính quyền trên hết thẩy nên theo ViệtNam, tức thể theo nguyện vọng của đồng bào, theo ý nguyện của dân tộc ViệtNam.
P.K.Đ.
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012
Vũ Thụy Hoàng - Viết Hay
Vũ Thụy Hoàng
“Trừ chuyện làm tình, chẳng có đề tài nào hấp dẫn,” theo lời Paul Roberts, một nhà ngữ học kiêm giáo sư dạy viết văn. Trong ngành viết, đề tài nào thường cũng buồn tẻ, nhưng dễ trở nên thích thú khi có người biết khai thác và làm thành hấp dẫn. Cũng như cá, thịt bày ở quày hàng ngoài chợ, nếu chỉ nhìn, đâu có ai muốn ăn. Nhưng khi cá, thịt qua tay người đầu bếp xào nấu và trở nên thơm phức, nhiều người ứa nước miếng.
Người viết hay là tìm ra những đề tài, đường lối, khía cạnh, luận cứ và ngôn từ để đưa độc giả đi theo. Nhờ vậy đã có biết bao đề tài tầm thường hàng ngày được sách báo viết tới và được độc giả thích thú theo dõi.
Ðược coi là hay, khi bài viết hoặc cuốn sách có gì mới lạ, làm người đọc tò mò muốn đọc, muốn biết. Ðề tài dù cũ vẫn trở thành mới, khi truyện viết xảy ra ở chỗ mới, trong hoàn cảnh mới, với những diễn biến mới, lời lẽ mới. Những chi tiết cho truyện, cho nhân vật, cho hoàn cảnh cũng vì vậy thành mới.
Ý niệm về hay cũng thay đổi tùy theo người, tùy theo ý hướng. Có người cho cười là hay. Người khác vui thích khi đọc được điều mới, thu thập thêm kiến thức, mở rộng tầm hiểu biết. Ông này thích thú khi đọc thấy trên trang giấy những điều tác giả viết đúng với ý của mình. Bà kia khuây khỏa vì bài viết gợi lại những ý nghĩ tiềm tàng trong tâm khảm, làm sống dậy những suy tư ấp ủ trong đầu, tạo được rung cảm trong lòngỳ. Bài báo hoặc sách được coi là hay, khi đánh trúng được điểm nào đó của người đọc. Những háo hức tìm hiểu, những ý nghĩ, những suy tư cũng như những rung cảm của mỗi người một khác, nên mỗi bài viết, mỗi cuốn sách đều có người thích, người chê. Người này cho là hay, người khác bảo là dở. Mỗi tác giả, mỗi loại sách báo vì vậy có những độc giả khác biệt. Nam giới thường hay đọc những truyện nhiều hoạt động sôi nổi, loại đấm đá, chiến tranh. Phụ nữ thích đọc truyện nhẹ nhàng, tình cảm.
Viết hay là kéo được độc giả đọc hết bài hay sách mình viết, làm họ say mê, vui thú khi đọc. Ðể lôi cuốn người đọc, bài viết hoặc sách cần cả nội dung, hình thức và lối viết. Nội dung, tức đề tài, tư tưởng hay khái niệm, chiếm địa vị quan trọng hàng đầu. Ðề tài đáp ứng được nhu cầu hoặc mối quan tâm của độc giả, dễ lôi kéo được người đọc, dù kỹ thuật viết yếu, hoặc sách in xấu. Truyện không hay đôi khi cũng ăn khách nếu người viết biết kỹ thuật sắp xếp, dàn dựng cho truyện gay cấn, đối thoại linh động, miêu tả nhân vật khéo léo.
Nội dung, nếu là tin tức hoặc thuộc loại không giả tưởng, cần phong phú và chính xác. Phong phú là cho độc giả biết tin tức mới mẻ, hay truyện có ý nghĩa thích thú, cùng với nhiều chi tiết được lọc lựa thích hợp. Những sự việc, nhân chứng, lời thuật, thống kê, tài liệu, phân tích, nhận định, phải dồi dào và phù hợp vào chủ điểm muốn tường thuật, trình bày hay diễn tả. Cạnh phong phú, bài viết cần chính xác. Ðây là điều quan trọng trong báo chí và ngành viết không giả tưởng. Bài viết có sai lầm dễ bị nghi ngờ và làm mất niềm tin của độc giả.
Ngoại trừ thể viết nghị luận, người viết thường dùng hình thức truyện để tường thuật sự việc, trình bày vấn đề, phát biểu ý nghĩ của mình và để lôi cuốn độc giả. Truyện thường có cốt truyện, có nhân vật, có xung đột, có ngụ ý, có miêu tả, có đối thoại.
Xung đột
Truyện là hình thức thông dụng nhất, hấp dẫn nhất trong ngành viết văn, viết báo, tiểu thuyết và không tiểu thuyết. Truyện dễ đọc, dễ hiểu đối với độc giả. Người đọc thấy thế giới bên ngoài qua truyện, và trong nhiều trường hợp thấy hoàn cảnh hay tâm trạng của mình giống phần nào trong truyện. Truyện đến từ bất cứ đề tài nào, không cần phải những đề tài to lớn, đại sự như những vấn đề chính trị, chiến tranh. Những việc nhỏ, tầm thường hàng ngày liên hệ đến con người, vẫn có thể là đề tài hay và hấp dẫn.
Ðịnh nghĩa được truyện hay là điều không dễ. Mỗi tác giả nghĩ một khác. Mỗi độc giả cũng nhìn khác. Nhưng điều cốt yếu để có truyện hay là phải có xung đột, có đối nghịch, có tranh chấp, có gay cấn, có “nổ.” Thế gian đầy rẫy những tranh chấp và gay cấn. Tranh chấp giữa người với người: vợ với chồng, con cái với cha mẹ, trai với gái, ở sở, ở thương trường, ngoài chính trường, giữa phe này với phe kia. Tranh chấp giữa người với thiên nhiên, với bão tố, tai nạn, thú dữ. Tranh chấp giữa tư tưởng mới với cũ, giữa tập quán xưa với nay, giữa thực tại với mơ ước. Tranh chấp còn xảy ra cả với chính mình, trong nội tâm: lưỡng lự, dằn vặt trước những khó khăn, những hoàn cảnh éo le, phức tạp. Những tranh chấp và rắc rối đó đi kèm theo với những mưu kế, những xúc cảm ở nhiều nơi, nhiều giai đoạn. Tranh chấp có lúc đơn giản, lúc gay go, lúc lên tới tột đỉnh rồi mới được giải quyết. Chính những tình tiết, những diễn tiến đó làm thành truyện, và truyện trở nên hấp dẫn.
Người ta không thích những rắc rối của cuộc đời, nhưng lại thích đọc truyện rắc rối để biết, để thỏa mãn tính tò mò, để tìm xúc cảm, để hòa mình trong đó và để xem giải quyết vấn đề ra sao. Vì tranh chấp là thiết yếu, nhà văn James Frey mới nói: “Ba quy tắc quan trọng nhất của loại viết gây xúc động mạnh là tranh chấp, tranh chấp, tranh chấp.” Nhà văn, nhà báo biết nhìn thấy những tranh chấp xẩy ra thường ngày trong cuộc sống, nhờ quan sát, tìm tòi, sưu tầm tin tức và sự việc, rồi nối kết lại với nhau, chọn lọc những chi tiết, diễn tiến của tranh chấp để viết lại cho người đọc. Bạn thấy những tranh chấp, gay cấn, rồi suy nghĩ, chọn lựa được điểm chính, tìm đủ những chi tiết cần thiết, thế là bạn có đề tài cho bài viết hay truyện.
Có tranh chấp thì phải có đối thủ kình chống nhau, tức là phải có nhân vật. Ðặt nhân vật chính vào những hoàn cảnh khó khăn, éo le, gay cấn. Nhân vật cố tìm những phương thế, mưu kế để vượt gian nan, hạ đối phương, chiếm phần thắng. Những mưu kế, những nỗ lực khắc phục khó khăn, nguy hiểm được xếp đặt càng ly kỳ, bí hiểm, càng tăng hồi hộp và càng lôi cuốn người đọc.
Có nhân vật, có tranh chấp là có người đọc. Sách, truyện vào đầu cần cho biết ngay có tranh chấp, hoặc nhân vật chính phải đương đầu với rắc rối, nguy hiểm. Cho biết ngay càng sớm càng tốt, hay ít ra ám chỉ có tranh chấp.
Nhân vật
Ngoài cốt truyện, nhân vật có thể làm thành truyện. Truyện và nhân vật thường đi đôi với nhau. Trong một số truyện, nhân vật làm truyện trở nên hấp dẫn, nổi bật hơn. Muốn sôi nổi, gay cấn, nên có ít nhất là hai nhân vật chính, vài nhân vật phụ.
Những diễn tiến của truyện, những mưu kế và giải đáp một biến cố gay cấn, thường đi sát với nhân vật chính trong truyện, như bóng với hình, nên có người cho cốt truyện là nhân vật, và nhân vật là cốt truyện. Có người tạo nhân vật rồi mới nghĩ tới cốt truyện. Có người nghĩ cốt truyện trước, rồi cho nhân vật vào.
Phần lớn sách hay truyện phát xuất từ nhân vật, bất kể cốt truyện được sắp xếp thế nào. Cốt truyện và tình huống phải phát xuất từ cá tính của nhân vật.
Các nhân vật trong truyện cũng khác nhau: người hiền, kẻ dữ, người tốt, người xấu, người thông minh, người ngớ ngẩn, mỗi người một cá tính, người nọ đối địch người kia. Ðối thoại vì vậy cũng khác nhau. Hành động cũng khác nhau. Những tương phản đó làm truyện thêm hấp dẫn.
Nhân vật phải sống động, phải có lý do để có mặt trong truyện. Những tay đối địch nhau phải thuộc loại kỳ phùng địch thủ, tương xứng tài sức. Mỗi bên có điểm mạnh, điểm yếu, mới tạo nhiều hồi hộp, lắm bất ngờ. Khi đưa nhân vật vào truyện, nên đưa từng người một. Ðưa nhiều người cùng một lúc, độc giả dễ hoang mang và khó nhớ.
Nhân vật chính, thường là người hùng, có những tính tốt, biết gây ngạc nhiên, bất ngờ, chứ đừng buồn tẻ. Nhân vật làm truyện chuyển động, nên nhân vật chính phải giải quyết được những khó khăn. Người đó phải có nhiều nghị lực, nhiều cách thế để thoát khỏi những gian lao, nghịch cảnh éo le, phức tạp về tinh thần cũng như vật chất.
Nhân vật chính cần được miêu tả kỹ hơn nhân vật phụ, từ diện mạo, tuổi tác, thân thế, tính tình, cho tới cách ăn mặc, xử sự. Ðừng tả nhân vật phụ rườm rà quá, làm lu mờ vai chính.
Cốt truyện
Cốt truyện là cách dàn dựng, sắp xếp những tình tiết về diễn tiến nòng cốt của một biến cố gay cấn, cho biết truyện xảy ra như thế nào và được giải quyết ra sao. Dàn dựng truyện giống như hoạch định đường đi trong cuộc hành trình, như vẽ họa đồ xây cất nhà cửa. Dàn dựng truyện giúp người viết hoàn tất tác phẩm theo những diễn tiến hợp lý. Cốt truyện, theo John Leggett, một tác giả có sách bán chạy nhất và là chủ biên của nhà xuất bản, thường gồm bốn phần:
Truyện thường vào đầu bằng cách giới thiệu nhân vật.
Ðặt nhân vật trong hoàn cảnh rắc rối. Nhân vật chính gặp khó khăn, nguy hiểm và muốn tìm cách giải quyết, muốn thoát đi, nhưng lại bị trắc trở, chống đối hoặc ngăn cản.
Cao điểm là chỗ gay cấn nhất của truyện
Giải đáp, cởi nút cho truyện.
Những rắc rối, những tranh chấp làm truyện biến đổi từ màn này sang màn khác. Những tình tiết gay go, phấn đấu được dự trù sẵn, nhằm gây ảnh hưởng mạnh vào óc tưởng tượng của độc giả, tạo xúc cảm và làm họ hồi hộp theo dõi. Xúc cảm đến vì có tranh chấp, vì muốn xem nhân vật chính phấn đấu và đương đầu ra sao trước những nghịch cảnh, rồi từ đó người đọc hòa mình vào truyện và theo dõi diễn tiến của truyện. Họ muốn biết truyện đi đến đâu, kết thúc ra sao.
Ðộc giả thường thích người tốt, ghét người xấu. Nhân vật phải đáng tin cậy, thích thú, sống động, để lôi kéo độc giả hòa theo truyện, tưởng như nhân vật đó có thực nếu là truyện giả tưởng. Nhờ vậy độc giả có cảm xúc để yêu hay ghét người trong truyện. Nhân vật cần được người đọc ưa thích để họ lo lắng khi nhân vật lâm nguy, hay sa cơ thất thế; rồi họ thở phào, phấn khới khi thấy nhân vật vượt qua và thắng thế địch thủ. Viết hay là làm sao tạo được nhân vật để độc giả yêu hay ghét. Ít nhất cũng phải có một người được yêu hay bị ghét.
Cốt truyện phải phù hợp với nhân vật và hoàn cảnh. Người hùng giải quyết theo lối hùng. Người gian giải quyết theo lối hèn. Người hùng mà giải quyết theo lối hạ sách làm độc giả thất vọng. Cốt truyện cũng theo hoàn cảnh để kết thúc theo lối vui vẻ, có hậu, hoặc buồn phiền, bi thảm.
Hoạt động
Truyện, cũng như phim ảnh, muốn hấp dẫn cần có hoạt động. Hoạt động diễn tiến trước mắt người đọc có tác dụng mạnh hơn là lời kể. Truyện càng có nhiều hoạt động càng dễ gây sôi nổi, hồi hộp và linh động. Có hành động của vai chính, tất phải có phản ứng của địch thủ. Hai bên đương đầu đối chọi nhau sẽ nảy sinh những mưu kế, những màn thư hùng, cũng như để lộ cá tính của nhân vật, điểm mạnh, điểm yếu của mỗi người.
Những màn, những cảnh hoạt động đó làm truyện tiến diễn. Cảnh là một truyện nhỏ trong một truyện lớn, do đấy có sẵn nhân vật, có đụng độ, gay cấn, có hành động, có khủng hoảng, có cao điểm, có giải đáp. Cảnh phải có địa điểm, có thời gian. Cảnh cho thấạy hoạt động quan trọng và gây ảnh hưởng mạnh nên lôi cuốn được độc giả. Cảnh cũng cần thay đổi cho khác nhau, nay chỗ này, mai chỗ kia, nay hoàn cảnh này, mai hoàn cảnh khác để truyện không bị buồn nản.
Hoạt động tạo nên hồi hộp, căng thẳng. Càng hồi hộp càng dễ giữ độc giả. Ðộc giả càng hồi hộp, càng tò mò muốn đọc tiếp để biết truyện sẽ ra sao, đi đến đâu. Gây hồi hộp, tò mò, nhưng đừng để lâu quá, độc giả sốt ruột. Cũng đừng cắt sớm quá, người đọc chưa kịp say men.
Muốn gây được hồi hộp, hãy tạo dựng một nhân vật mà họ ưa thích, cho nhân vật lâm vào hoàn cảnh nguy hiểm. Vừợa thoát khỏi nguy hiểm này, lại phải đương đầu với nguy hiểm khác sập tới. Truyện càng có nhiều biến chuyển, lòng hồi hộp và căng thẳng càng lên cao. Những đột biến càng làm tăng thêm chăm chú, và người đọc càng thích thú đọc tiếp.
Cạnh những hoạt động còn có lời thuật hoặc dẫn giải. Hoạt động và lời thuật thường xen lẫn và pha trộn vào với nhau. Lời thuật và cảnh phải xen lẫn vào nhau như chiếc thảm có đan nhiều màu để tạo thành một cốt truyện hay và hấp dẫn.
Những màn hoạt động, những cảnh sôi động hay những chi tiết ly kỳ thường được chọn lựa để đưa vào ngay phần đầu của truyện để khởi đi mau lẹ, sống động và sôi nổi, kích thích óc tò mò của độc giả. Những truyện trinh thám, gián điệp, băng đảng thường khởi đầu theo lối này.
Miêu tả
Miêu tả giúp người đọc hình dung ra nhân vật, biết được bối cảnh, để nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy, nhờ đấy hiểu truyện nhiều hơn, rõ hơn, sâu hơn. Tiểu thuyết, cũng như báo, đều có những miêu tả về người, về cảnh. Nhiều bài viết và truyện khởi đầu bằng những đoạn miêu tả, hoặc về người, về cảợnh, hoặc cả hai. Ngay cả những đoạn mở đầu bằng hoạt động cũng có xen lẫn miêu tả. Mỗi khi người, cảnh, và cả hành động, thái độ, tâm trạng của nhân vật được đưa vào truyện là có miêu tả. Miêu tả đi liền với truyện, đan lẫn vào trong truyện, và làm truyện khởi sắc, sống động.
Người viết dùng năm giác quan ghi nhận những gì xảy ra để miêu tả. Nhờ tai, mắt, tay, mũi, lưỡi, người viết mới tả được cụ thể và linh hoạt, làm độc giả như nhìn, nghe, sờ, ngửi, nếm thấy ở trước mặt. Miêu tả cần chính xác, rõ ràng, ngắn gọn, đừng dông dài, rườm rà. Có những từ để tả rõ. Có những từ hàm ý. Dùng những từ gợi hình dễ gây ấn tượng. Miêu tả giỏi là tạo được ấn tượng bằng cách chọn những chi tiết đặc biệt, thích hợp, dùng những từ gợi ý, sống động, những ví von, so sánh, ẩn dụ như đã đề cập ở văn phong, để trưng cho độc giả thấạy hình ảnh ở trước mắt, như thấy trên màn ảnh vô tuyến truyền hình, chứ không phải chỉ đọc những chữ tả ở trong sách. Miêu tả vì vậy làm ý nghĩa của truyện trở nên cụ thể, độc giả hiểu truyện sâu sắc hơn.
Không cần phải tả tỉ mỉ, từng li từng tí, chỉ cần những đặc điểm nổi bật của người, của cảnh. Cảnh nếu quan trọng mới cần nhiều chi tiết. Nhân vật chính, hoặc quan trọng, mới cần những chi tiết như diện mạo, tuổi tác, thân thế, nghề nghiệp, chức vụ, trình độ học vấn, quê quán, nơi cư trú, tính tình, cách nói năng, xử sự, thái độ, và hành động. Chọn những chi tiết đặc trưng để đưa vào những chỗ thích hợp, chứ đừng đưa vào nhiều chi tiết rậm rạp hoặc dồn cục ở mộỳt chỗ. Miêu tả dở là kể ra nhiều chi tiết mà không hội tụ, chú trọng vào điểm nào.
Trong tiểu thuyết, tác giả được tự do tả người theo ý muốn, theo ý của truyện. Trong báo chí và loại viết không giả tưởng, việc tả người cần thận trọng hơn, nhất là khi tả về thể chất, diện mạo của người mình đã nói chuyện hoặc phỏng vấn. Về thể chất, chỉ nên tả vắn tắt, một vài điểm. Bạn có thể dùng nhận xét hoặc cái nhìn của người khác về nhân vật mà mình viết để độc giả biết thêm. Lối này xen vào để thay đổi nhận xét và để được khách quan hơn.
Sau đây là đoạn văn ở đầu một chương, vừa tả người, tả cảnh, tả việc, vừa làm truyện diễn tiến.
Trương Văn Ðăng, người mảnh khảnh, nét mặt phong sương, quần áo bình dị. Anh là một trong những thanh niên Việt tỵ nạn cần cù, lanh lợi, nhiều mưu trí và giàu lòng thương mến gia đình.
Ðăng bước ra khỏi nhà vào một buổi sáng mùa xuân. Kẹp dưới nách tay trái là chiếc thùng giấy bồi màu cát biển vàng sạm. Tay phải anh kéo sập cánh cửa, nhét chìa khóa vào ổ, xoay một vòng. Căn phòng anh thuê nằm trong một cao ốc già nua, cũ kỹ. Tường phía trước cao ốc vàng bệch, sơn tróc loang lổ, như một bà đầm già thiếu son phấn lại biếng chải chuốt. Tòa nhà đứng ủ dột ở gần góc đường 17 và R thuộc khu tây bắc thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. (Tòa nhà này sau được phá đi và thay thế bằng một cao ốc mới tráng lệ hơn)
Rời cao ốc, Ðăng tiến lại phía chiếc xe cũ màu xám nhạt đậu ở lề đường gần đấy. Chừng 10 phút sau, chiếc xe rời ranh giới thủ đô, vượt cầu Theodore Roosevelt bắc ngang sông Potomac, tiến vào George Washington Memorial Parkway thuộc tiểu bang Virginia.
Ðăng khoan khoái trước làn không khí mát mẻ ban mai lọt qua cửa kính hé mở. Lòng anh thơ thới lâng lâng, thỉnh thoảng rộn lên niềm băn khoăn, hồi hộp, khi biết mình đang làm một việc cần thiết và quan trọng. Anh thích thú mỉm cười khi nghĩ đến những nét mặt mừng rỡ, hân hoan của thân nhân. Nhưng rồi anh đột nhiên cau mày, liên tưởng đến những công lao dành dụm của anh trong nhiều tháng ngày sẽ tan biến thành mây khói nếu vụ anh sắp làm bị lộ tẩy.
Hơn nửa giờ trôi qua. Tháp kiểm soát không lưu của phi trường quốc tế Dulles hiện ra trong ánh nắng vàng dịu. Trụ tháp với tầng kiến trúc tỏa rộng ở phía trên gợi lại hình ảnh ngôi chùa một cột của Việt Nam ở miền bắc mà Ðăng có dịp nhìn thấy trong sách.
Tới văn phòng chuyển vận hàng hóa của hãng Hàng Không Pháp, Ðăng gặp người quen, Nguyễn Văn Lý, để làm thủ tục giấy tờ gửi quà về cho gia đình ở Việt Nam.
Chiếc thùng giấy được chằng cẩn thận bằng mấy lớp băng keo. Các kẽ tiếp giáp và cả trên những đường góc bên cạnh cũng được dán kỹ. Thùng được cột chặt thêm bằng hai lượt dây gai xoắn lại với nhau. Trong thùng có 20 thước lụa Pháp, năm khúc vải ga-bác-đin may quần tây, ba gói bột ngọt loại hai cân Anh, hai lọ thuốc trị đau bao tử hiệu Maalox, hai lọ thuốc trị cảm nóng hiệu Tylenol loại 100 viên cực mạnh, hai lọ aspirin thứ 200 viên và một hộp cá mòi nặng năm cân Anh.
Trong thùng còn một lá thư viết cho “ông già” để báo tin gửi quà về. Thư có đoạn viết: “Con nghèo lắm, chỉ có mấy thứ quà nhỏ này gửi về cho gia đình. Có ít vải để ba và các em may mặc. Một ít thuốc để phòng ngừa khi đau bịnh. Hộp cá con gửi tuy tầm thường, nhưng biểu lộ lòng thương mến của con với gia đình. Nhà ăn thử xem sao. Nếu vì để lâu, cá có mùi, ba bảo mấy đứa nhỏ cho tiêu ớt vào, kho lên hoặc chiên lại mà ăn, đừng vứt đi uổng...”
(Trích Quê Hương Thương Ghét)
Sài Gòn Tuyết Trắng cho thấy ngay khi vào truyện là tả thành phố Sài Gòn, đoạn đường Hai Bà Trưng và tâm trạng của người thuật truyện.
Tôi thẫn thờ nhìn vào khoảng trời mờ mờ tối của thành phố Sài Gòn. Ðầu óc tôi rối bời. Tâm thần tôi mệt mỏi. Lòng tôi trũng xuống. Nhiều câu hỏi đang quay cuồng nhảy múa trong trí tôi. Chúng chập chờn, khi ẩn khi hiện. Câu hỏi này chưa được trả lời, câu hỏi khác lại nhảy tới. Chúng như đám muỗi vo ve, vây hãm và châm đốt tôi tới tấp. Những âu lo vì vậy dồn dập chồng chất trong lòng tôi sau cả một ngày căng thẳng.
Tôi đứng trên lầu ba, tựa người vào thành bao lơn, lơ là nhìn xuống đường Hai Bà Trưng ở phía dưới. Chạy ngang trước mặt nhà thờ Tân Ðịnh, đoạn đường vào giờ này bớt ồn ào. Xe cộ ngược xuôi thưa thớt hơn Một chiếc xe gắn máy phóng thật nhanh, tiếng động cơ rít lên, vụt chạy về phía Phú Nhuận như vội về nhà gấp trước giờ sắp giới nghiêm. Dãy nhà hai bên đường đứng bình thản. Nghĩa địa Mạc Ðĩnh Chi, chênh chếch trước mặt tôi về phía tay phải, im lìm trong tăm tối. Xa xa phía tay trái bảng hiệu của nhà hòm nổi tiếng Tobia lờ mờ trong ánh đèn vàng.
Tôi thấy mình rờn rợn. Tôi đăm chiêu, tư lự.
“Có lẽ nào mau lẹ thế?” tôi tự hỏi.
Bầu trời Việt Nam từ lâu đã không sáng sủa. Nhiều đám mây đen vẫn lảng vảng ở phía xa. Ðiều không thể ngờ là những đám mây đen ùn ùn đùn lên quá nhanh. Nền trời thấp hẳn xuống, tối sầm lại. Chớp giật loang loáng. Sấm sét nổ ầm ĩ. Mưa tuôn ào ạt. Gió giật đùng đùng, rít mạnh từng hồi. Thoạt đầu tưởng chỉ là một cơn giông thường, trận bão bất ngờ biến thành hung dữ, hoành hành với cường độ mãnh liệt nhất tôi chưa từng thấy.
Con thuyền mong manh Việt Nam đang bị trận bão nhồi dập, sắp chìm đắm. Tôi nghĩ đến cuộc chiến Việt Nam, sau gần 30 năm, đang diễn tiến ác liệt để đi đến hồi kết thúc.
Ðối thoại
Ít có truyện nào viết mà không có đối thoại. Những nhân vật trong truyện nói với nhau, hoặc đối đáp nhau, làm người đọc như chứng kiến hai người trước mặt, như coi phim có tiếng nói, chứ không phải phim câm. Ðối thoại làm lời nói sống động, hơn là kể lại những lời phát biểu của những nhân vật.
Ðối thoại rất quan trọng trong tiểu thuyết. Qua đối thoại các nhân vật có thể giãi bày ý nghĩ, giải thích hành động, bày tỏ những cảm xúc vui, buồn, hờn, giận, biểu lộ cá tính của mình. Lời nói của các nhân vật khơi động lòng yêu, ghét của người đọc. Người viết còn dùng đối thoại để làm truyện diễn tiến và chuyển động, phanh phui manh mối những xung đột, tiết lộ động cơ hành động, báo tin biến chuyển sắp xảy ra, hay giải đáp những tranh chấp, và có khi tóm lược chuyện quá khứ thay vì người viết phải kể lại. Ðối thoại còn là cách để người viết đưa vào quan điểm của mình, ý kiến của mình. Ðộc giả nhờ đối thoại dễ lĩnh hội và suy ngẫm về câu chuyện.
Vì đối thoại có công dụng đa dạng, người viết cần đặt mình vào địa vị của mỗi nhân vật, đóng vai trò của mỗi nhân vật, ở mỗi hoàn cảnh để lời đối thoại hợp với thực tế và đúng với vai của người trong cuộc. Ðối thoại của người trong truyện phải tự nhiên và đúng như ngôn ngữ ngoài đời, nhưng đừng lông bông, rườm rà như chuyện thường ở ngoài, mà nên cô đọng, cắt xén cho gọn lại, đi thẳng vào điểm chính hay có liên hệ đến vấn đề. Ðối thoại cũng không cần đúng văn phạm, hoa mỹ, nhưng cần phản ánh thực tế. Lời đối thoại có thể xen những từ sáo, tiếng lóng, tiếng địa phương, biệt ngữ, nếu có gợi ý hoặc giải thích vắn tắt để người đọc hiểu được.
Truyện có bao nhiêu đối thoại thì vừa? Với tiểu thuyết, có người cho đối thoại chiếm một nửa, còn nửa nữa là miêu tả hay tường thuật. Khó mà định hẳn một tỷ lệ nào đó. Ðối thoại nhiều hay ít là tùy truyện, tùy hoàn cảnh, tùy màn.
Trong văn viết, lời đối thoại thường được dùng trong ngoặc kép, hay có dấu gạch ngang ở đầu dòng, để phân biệt lời người này với người khác. Khi thuật, cần xác định ai nói lời đó. Người nói nên đi trước hay sau lời trích thuật? Trong sách báo Việt Nam, người nói đi trước. Trong sách báo Âu, Mỹ, người nói thường đi sau một câu ngắn, hoặc một phần câu nếu câu dài. Mời bạn đọc hai lối viết đối thoại sau đây:
Tôi hỏi bà bạn ở Orange County, California: “Bà mới đi chơi Việt Nam về?”
Bà đáp: “Vừa mới về được mấy ngày.”
Tôi nói: “Thế bà ăn Tết Tân Tỵ ở Việt Nam, vui há?”
Bà trả lời: “Vui gì mà vui. Tôi bảo ông chồng tôi lần sau muốn về thì đi một mình, tôi không về nữa,”
Và lối thứ hai:
“Bà mới đi chơi Việt Nam về?” tôi hỏi bà bạn ở Orange County, California.
“Vừa mới về được mấy ngày,” bà đáp
“Thế bà ăn Tết Tân Tỵ ở Việt Nam, vui há?” tôi nói.
“Vui gì mà vui. Tôi bảo ông chồng tôi lần sau muốn về thì đi một mình, tôi không về nữa,” bà trả lời.
Lối thứ nhất xác định người nói rồi tới lời nói. Lối này theo thứ tự thời gian, nhưng làm văn đang đọc bị đứt đoạn, bị chậm lại vì những chữ như tôi hỏợi, bà đáp. Lối thứ hai, để lời nói đi trước và ngay ở đầu câu, làm người đọc bắt được ý mau hơn, thấy truyện diễn tiến dồn dập hơn, và giúp độc giả đọc nhanh hơn. Còn phụ ngữ cho biết người nói lời đó là thứ yếu, chỉ cần liếc qua là biết, và có khi không cần đọc cũng đoán được ai nói nếu có đối thoại dài giữa hai người.
Trích thuật
Báo chí và những loại viết không giả tưởng ít có đối thoại hơn tiểu thuyết, nhưng có những trích thuật lời nói của người được đề cập tới. Những lời này được rút ra từ những cuộc phỏng vấn, những buổi diễn thuyết, thảo luận, chuyện trò và có khi nghe lóm được. Những tài liệu như biên bản, báo cáo và sách báo cũng được trích thuật. Lời trích thuật còn cho thấy người viết có sưu tầm, dẫn chứng tài liệu, nên làm tăng giá trị của bài viết và tạo tín nhiệm cho tác giả.
Nhà báo ít khi có dịp được chứng kiến sự việc ngay tại chỗ, mà thường nghe những người khác thuật lại sự việc hay câu chuyện xảy ra. Lời kể của những nhân chứng đó có thể được thuật trực tiếp, nhưng không có nghĩa là phải ghi chép nguyên văn. Khi chuyện trò, người ta thường nói luộm thuộm, dài dòng, đôi khi không đúng văn phạm, cú pháp, vì vậy không phải thuật đúng từng chữ họ nói, mà chỉ chọn những từ cần thiết để cô đọng ý và giữ đúng ý. Cũng có thể tóm gọn hoặc sửa đổi câu nói, thêm bớt một số chữ mà không làm sai lạc ý của họ. Chỉ những chữ hay câu nào đúng nguyên văn mới để trong ngoặc kép, nên nhiều khi chỉ có một vài chữ được đóng ngoặc kép. Lời trích thuật vì thế phải có gì đặc biệt như để tăng cường ý bài viết, làm nổi bật ý, soi sáng vấn đề, hoặc tạo sống động, dí dỏm cho người đọc. Ðoạn dưới đây có một số trích thuật, có khi là một câu, có khi chỉ vài chữ xen vào bài của người viết:
Năm 1967 ông Kỳ có ý định ứng cử tổng thống với tư cách đại diện quân đội và tin chắc ông sẽ thắng. Ông ngạc nhiên thấy ông Thiệu loan báo cũng ra tranh cử. Thấy nguy cơ thất bại nếu quân đội có hai ứng cử viên đối địch nhau, một số tướng lãnh đã gặp riêng ông Thiệu để yêu cầu ông Thiệu đừng ra tranh cử. Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng, người ủng hộ ông Kỳ, đã gặp Trung Tướng Thiệu để can ngăn, và hai người đã to tiếng “suýt đánh nhau,” theo sách viết.
Ông Kỳ và nhiều tướng lãnh trong Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia lúc đó đã họp bàn và quyết định cho Tướng Thiệu giải ngũ, đưa Ðại Tướng Cao Văn Viên lên chức quốc trưởng. Khi quyết định này sắp sửa được loan báo, và thấy ông Thiệu “sắp khóc,” ông Kỳ đột nhiên nói: “Tôi sẽ trở về Không Quân. Các ông có thể cử Trung Tướng Thiệu làm ứng cử viên tổng thống.”
Lời nói thốt ra bất chợt trong khoảng “một phần mười ngàn giây đồng hồ, nhanh hơn một nháy mắt,” và đến nay vẫn còn là “một bí hiểm lớn đối với tôi,” theo lời thuật của ông Kỳ. Ông cũng không hiểu tại sao ông lại quyết định như vậy. Ông giải thích có lẽ vì thấy ông Thiệu sắp khóc, và vì lòng từ tâm của con nhà Phật, mủi lòng “thương hại,” mà ông quyết định như vậy. Ông cho rằng nếu lúc đó ông ngậm miệng thì “thế giới đã đổi khác.”
Sau khi ông Kỳ cho biết không ra ứng cử, một số tướng tá đã yêu cầu ông đứng chung liên danh với ông Thiệu. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã bóc lon ra, nói sẽ từ chức và ra khỏi quân đội, nếu ông Kỳ không chịu đứng chung với ông Thiệu. Ông Kỳ rút cục đồng ý. “Ðó là lỗi lầm lớn nhất trong đời tôi. Từ năm 1975 không một ngày nào mà tôi không hối tiếc,” ông Kỳ viết.
Viết tóm lược lời nói, hoặc viết lại cho gãy gọn mà giữ đúng ý, còn làm bài viết được giản dị, trong sáng, giúp độc giả đỡ thắc mắc, khó hiểu, và cũng giúp người viết khi không nhớ được hết nguyên văn. Thuật khéo thì hấp dẫn, linh động, sáng sủa. Thuật dở thì lòng thòng, chán phè, làm người đọc bực mình rồi bỏ ngang.
Những trích thuật lời nói của những người trong cuộc phỏng vấn, hay tuyên bố nơi công cộng, nên có tên người nói. Nếu họ nói riêng với mình, hoặc yêu cầu đừng nhắc đến tên, không nên nêu tên của họ. Lối trích thuật như vậy cũng được áp dụng cho tài liệu hay sách báo. Với sách báo, nên ghi chú xuất xứ, để cho thấy có sưu tầm nghiên cứu, và cũng để tránh bị tố là đạo văn.
Giai thoại
Giai thoại là những mẩu chuyện có liên hệ đến người hay sự việc trong truyện. Một bài viết, hoặc cuốn sách, có những câu chuyện nhỏ làm truyện sống động, hấp dẫn hơn. Giai thoại thường hé lộ cho biết cá tính hay tư cách của nhân vật, hoặc một khía cạnh đáng chú ý của vấn đề. Vì vậy giai thoại tự nói lên ý nghĩa của nó, chứ không cần giảng giải. Ðộc giả dễ lĩnh hội ý nghĩa của câu chuyện và tự rút ra kết luận. Kinh Thánh đã dùng những mẩu chuyện để giảng giải luân lý, đạo nghĩa và được coi là có hiệu lực hơn những lời thuyết pháp.
Vì là truyện nhỏ nằm trong những truyện khác, việc thuật lại mẩu chuyện cũng đòi hỏi tài kể chuyện. Giai thoại cần viết ngắn, gọn, đi thẳng vào vấn đề, nhất là phải vui vui, ngồ ngộ để giải trí độc giả. Truyện phải mới, ít người biết. Thường được kể theo thứ tự thời gian, chuyện nên có nút mở bất ngờ ở cuối. Bất ngờ này làm người đọc ngạc nhiên, thích thú, nở một nụ cười khoái trá. Trong Sài Gòn Tuyết Trắng, vụ ông đại úy cảnh sát mang lon trung tá giữ an ninh trật tự ở tòa đại sứ Mỹ khi có cuộc di tản năm 1975 làm nhiều người đọc không khỏi mỉm cười.
Nhà văn, nhà báo còn dùng những mẩu chuyện để mở đầu sách hay bài viết hoặc để dẫn vào chủ đề của bài. Những chuyện khác lạ, trớ trêu, trái khoáy càng dễ lôi kéo sự chú ý của độc giả. Bạn đọc dễ nhận thấy lối này trong báo chí, nhất là trong loại bài đặc biệt.
Hồi Tưởng
Hồi tưởng là kỹ thuật dùng cảnh hay mẩu chuyện trong quá khứ để xen vào nhằm làm độc giả biết thêm tin tức hay hiểu rõ hơn về truyện chính. Có thể xen vào bằng cách tóm tắt biến cố đã qua hoặc nhớ lại sự việc hồi trước. Hoặc lấy một chi tiết nào đó rồi khơi lại việc xa xưa. Cũng có thể dùng đối thoại hay hành động để gợi lại chuyện cũ. Hồi tưởng hay là có cả miêu tả, đối thoại và hành động. Tiểu thuyết thường có những đoạn hồi tưởng về những giai đoạn xa xưa như thuở thiếu thời, lúc đi học, mối tình đầu hoặc cuộc tình đã qua. Xen vào nửa chừng như vậy dễ làm gián đoạn truyện, hồi tưởng cần vắn tắt. Ðiều quan trọng khi xen hồi tưởng phải khéo léo, tự nhiên, không làm người đọc hoang mang, khó hiểu, làm gián đoạn mạch truyện đang kể. Nên tránh xen hồi tưởng khi truyện đang ở lúc gay cấn.
Gây cảm xúc
Muốn hấp dẫn, lôi cuốn, bài hay truyện còn cần làm cho độc giả hòa mình vào truyện, để họ tưởng như đang sống với truyện, như chính họ đang trải qua những kinh nghiệm của người trong truyện, để họ mỉm cười, hoặc sụt sùi nước mắt. Gây được những cảm xúc như vậy là người viết dễ thành công.
Không phải chỉ có những loại truyện tình cảm, ướt át mới khơi được xúc động của người đọc. Những truyện không giả tưởng vẫn có thể làm nở những nụ cười, hoặc làm rơi những giọt lệ. Tạo ra được xúc cảm thường phải là truyện của cá nhân, chứ không phải của tập thể, vì cá nhân mới cụ thể và mới dễ gây tác động với người đọc. Ðộc giả xúc cảm vì ý thức được hoàn cảnh buồn bã, đau lòng đối với người trong cuộc, như cảnh đám ma, truyện tình tan vỡ, gái quê bơ vơ trước hoa lệ của đô thị. Những truyện trẻ thơ bị bỏ rơi, gái quê bị lừa gạt, người nổi tiếng chết vì tai nạn, thường dân vô tội bị tai họa chiến tranh, đều là những truyện dễ khơi động lòng thương cảm của người đọc, khiến họ mủi lòng, rơi lệ, quyên góp tiền bạc, mang thực phẩm đến giúp đỡ. Kể một chiến binh với những cảm xúc khi xông pha ngoài chiến trận, lúc đói khát, trèo đèo, lội suối, băng rừng, và khi đụng độ với địch phải nằm bẹp dưới làn đạn cày đất tung bụi, trong lúc đồng đội người bị thương, người chết, sẽ gây tác động hơn là kể chuyện một sư đoàn dàn quân đánh nhau với địch. Truyện một thanh niên Việt tỉ mỉ bỏ vàng vào hộp cá gửi về cho anh chị em ở Việt Nam làm người đọc thích thú hơn là chỉ nói những vụ gửi tiền, gửi hàng về Việt Nam của tập thể người Việt ở hải ngoại.
Ðộc giả cũng thường thích cười đùa, nên tìm hoặc chêm vào những giây phút thoải mái, những nụ cười, những ý nhị nếu có dịp. Nhiều tiếng cười đến vì những sự việc nghịch lý, trái bình thường. Những hành động của anh chồng sợ vợ, những kiểu cảnh sát lớ ngớ khi tìm bắt gian phi, lối nghịch ngợm của học trò với thày giáo, kiểu lính đùa giỡn cấp trên hoặc lối sống bủn xỉn của người giàu, thường dễ tạo ra những tràng cười thoải mái. Chính vì vậy những bài viết châm biếm, dí dỏm, chọc ghẹo, dễ được người đọc ưa thích. Những tình tiết vui buồn không nhất thiết phải dài dòng, nhiều khi chỉ cần vài tiếng gợi ý đủ tạo xúc cảm cho người đọc.
Dài, ngắn
Bài báo hay sách nên viết dài hay ngắn? Bao nhiêu thì vừa?
Dài hay ngắn tùy loại, tùy nội dung còn sức lôi cuốn độc giả hay không, và tùy theo tác giả lượng định. Nói chung, dài đủ để truyện có đầu có đuôi, có sức hấp dẫn, đáp ứng được ước muốn của độc giả.
Viết ngắn quá, sách tỏ ra nghèo nàn nội dung, khó bán. Nếu ngắn, phải xem lại dàn bài, duyệt lại cốt truyện, thêm cảnh, thêm hoạt động, tạo thêm những tranh chấp phức tạp.
Viết dài mà không có nhiều tình tiết và biến chuyển hấp dẫn, sách làm người đọc nản. Ðừng nghĩ viết dài là giỏi, làm sách có giá trị. Những sách dày cộm, viết lông bông mà nội dung không hấp dẫn, dễ làm độc giả sợ. Ấn phí cũng cao hơn, giá bán sách tăng lên, và người đọc đắÔn đo khi mua. Nếu thấy dài, xem lại, cắt đi những đoạn rườm rà, lòng thòng. Số trang nên sắp xếp làm sao cho tiện với xấp giấy của nhà in. Nhà in Việt Nam thường in tám trang một tập, còn nhà in Mỹ 24 trang hoặc 48 trang mỗi tập.
Các chương trong sách cũng nên được sắp xếp cân đối. Chương dài quá làm độc giả khó đọc liên tục trong một lúc và dễ chán. Chương ngắn quá làm độc giả có cảm tưởng không có gì quan trọng, gay cấn ở trong. Người viết nên sắp xếp để mức dài ngắn của các chương xấp xỉ gần bằng nhau.
Chương thường được kết thúc mỗi khi đổi khung cảnh, đổi đề mục, đổi quan điểm hay đổi nhân vật trong truyện. Hết một chương, độc giả thường có khuynh hướng nghỉ đọc, trừ phi sách hấp dẫn và lôi cuốn. Muốn độc giả đọc tiếp, ngoài cốt truyện hay, còn kỹ thuật để đoạn gay cấn lửng lơ ở cuối chương, hoặc ngụ ý điểm gay cấn sẽ được giải quyết ở phần tiếp.
Viết hay
Bạn đã thấy những yếu tố góp phần làm cho truyện hay là cốt truyện, nhân vật, xung đột, hoạt động, miêu tả, tương phản, đối thoại, và những tình tiết. Tất cả những điểm đó phải gắn bó với nhau, mạch lạc, hợp lý và làm người đọc hài lòng. Khi viết truyện về người hay việc xảy ra, nhớ sáu câu hỏi căn bản: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Tại sao? Như thế nào? Trả lời được càng nhiều chi tiết về sáu điểm trên, bài viết càng được đầy đủ, không bị những lỗ hổng, những thiếu sót, và độc giả cũng hài lòng khi thấy những thắc mắc được giải đáp.
Người viết hiểu thấu đáo câu chuyện hay sự việc, viết sẽ dễ dàng và rõ ràng. Nếu không, bài viết trở thành lờ mờ, khó hiểu. Khi viết, đặt mình vào địa vị người đọc để dự đoán những gì họ muốn biết, muốn hỏi.
Từ những điều thu thập được, sắp đặt câu chuyện cho có thứ tự, mạch lạc, và dùng những kỹ thuật để làm cho bài viết được hấp dẫn. Bài viết phải có mở đầu lôi cuốn. Truyện phải có gay cấn, hấp dẫn.
Truyện viết phải có chủ đề, và phải chú trọng vào chủ đề. Bài viết không có chủ đề, không nhắm vào trọng điểm sẽ trở thành lang bang, lộn xộn và người đọc khó bắt được ý chính, do đấy khó hiểu. Không chú trọng vào chủ đề, bài viết không giải đáp được những thắc mắc của độc giả, không đáp ứng kỳ vọng của họ.
Bài viết dù giả tưởng hay không giả tưởng còn cần có một ý nghĩa nổi bật, hoặc ngụ ý, hoặc gửi gắm một thông điệp. Ý nghĩa này thường dễ nhận trong loại viết không giả tưởng, khi bạn biết mình viết về vấn đề gì, vì sao viết vấn đề đó. Nhưng trong tiểu thuyết ngụ ý của truyện nhiều khi không lộ rõ. Vì tác giả không nói rõ, nên người đọc có thể giải thích theo nhiều lối khác nhau tùy theo nhận định của mỗi người. Dù không lộ diện, ngụ ý vẫn nằm sẵn trong tác phẩm, nên Judy Delton cho rằng ý nghĩa của truyện chạy ngầm song song với đề tài từ đầu tới cuối.
Thêm vào những điểm về nội dung, tác phẩm hay còn cần lối viết tự nhiên, giản dị như khi nói chuyện. Người viết hay là để người ta đọc mà tưởng mình nói, chứ không phải viết. Lời văn diễn tả phải ngắn, gọn, hợp với đề tài, đối thoại phải linh động. Sống động là làm độc giả đọc mình mà tưởng như đang chứng kiến sự việc xảy ra trước mắt, nhìn thấy cảnh vật, nghe các nhân vật nói chuyện với nhau, khiến độc giả hòa mình vào trong cuộc, muốn đọc để theo dõi truyện hoặc để tìm hiểu, học hỏi.
Muốn viết hay, người viết cần đọc nhiều sách báo. Ðọc là cách tốt và mau để học viết. Hãy đọc tác phẩm của những cây viết nổi tiếng, những tờ báo có uy tín để phân tích và học hỏi cách dàn dựng truyện, cách tạo nhân vật, cách phô diễn cá tính, cách miêu tả người, cảnh và hoạt động, cách mở đầu và kết thúc bài viết, tầm mức dài ngắn của truyện, lối sử dụng chữ và những cách phát biểu trong sáng, gọn gàng. Cũng nên liếc qua những sách báo hạng xoàng hoặc dở để nhận thấy những sơ suất, lỗi lầm của họ mà tránh.
Người đọc, phần đông không biết kỹ thuật viết, vẫn biết phân biệt truyện hay hoặc dở, như thực khách không nấu ăn vẫn biết món ăn tiệm nào ngon, tiệm nào tồi. Nhưng xin bạn nhớ rằng lượng định sách hay hoặc dở tùy thuộc nhiều yếu tố trong đó có chủ quan, cũng như món ăn được khen ngon hay bị chê tùy theo khẩu vị mỗi người. Một cuốn sách hay không nhất thiết sẽ thành sách bán chạy nhất. Không có tiêu chuẩn nào đểợ đảm bảo sách trước khi in sẽ thuộc loại ăn khách nhất. Ngay cả người viết có tài, tìm được đề tài hay, cũng không dám chắc là tác phẩm viết ra sẽ đứng đầu về số bán. Có nhiều yếu tố để sách bán chạy. Có khi do tình cờ, đề tài được độc giả ưa thích. Có khi vì loại truyện độc giả dễ đón nhận như những truyện tình gay cấn, ướt át, hoặc truyện trinh thám ly kỳ, hoặc vấn đề thời sự đang được chăm chú theo dõi, hoặc loại truyện vui dí dỏm. Có khi vì người viết đã nổi tiếng, hoặc được độc giả ái mộ.
Vì không thể đoán được phản ứng của độc giả, bạn cứ cố viết cho thật hay rồi kết quả sẽ tới sau. Ít ra bạn cũng hoàn tất được tác phẩm và trở thành tác giả. Nếu bạn may mắn thành công, mừng bạn vì vừa có tiền vừa có tiếng.
Viết hay là một nghệ thuật. Nghệ thuật được phát huy do chính người viết, chứ không ai có thể chỉ dạy được. Những kỹ thuật đề cập ở trên chỉ là những chỉ dẫn để giúp viết hay mà thôi. Irving Stone, một trong các tác giả có những sách vào hàng bán chạy nhất của Mỹ, nhìn nhận thật khó định nghĩa thế nào là nghệ thuật. Theo ông, nghệ thuật là tiếng hát trong dòng máu, là khoái cảm của thần kinh, là ánh lửa bùng lóe trong tim, là sáng rực của giá trị nhân bản trong tâm trí. Muốn vậy, theo ông, văn có lối viết trầm bổng, làm người đọc vui thích, không rời mắt ra được; nhân vật và tình huống tỏa ra hương vị hài hước; tình tiết của truyện và hồi hộp phải quấn quít vào nhau; cảnh phải gay cấn để người đọc cảm thấy như mình là nhân vật chính trên sân khấu, và tiếp tục đọc say mê, thích thú, lật trang này qua trang khác khi đọc được những ý tưởng mới, những khái niệm sâu xa hơn và hiểu hơn về thân phận con người.
(Trích từ quyển "Múa Bút")
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)