Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012
Nguyễn Tường Thiết - Hai đứa tôi...
Diễn Đàn Thế Kỷ
hân hạnh giới thiệu cuốn Thơ và
Văn
KHÓI
HỒ BAY
của nhà văn, nhà thơ
NGUYỄN TƯỜNG GIANG. Sách do Thạch Ngữ xuất bản 2012,
họa sĩ Nguyễn Đồng trình bày, Nguyễn Tường Thiết
viết bài giới thiệu phần Văn (Hai
Đứa Tôi), Phạm Phú Minh giới thiệu
phần Thơ (Tĩnh lặng, khói hồ bay).
Khói Hồ Bay dày 384
trang, không ghi giá bán và địa chỉ liên lạc.
Nguyễn
Tường Thiết
Hai đứa
tôi...
... tản bộ
buổi sáng một ngày đầu thu trên con đường vòng hồ
Green Lake của thành phố Seattle. Trời se lạnh. Co mình
trong chiếc áo ấm hai tay thủ túi chúng tôi im lặng đi
bên nhau cùng hồi tưởng về một năm nào xa xưa cũng
buổi sớm mù sương hai đứa tôi trong tuổi đôi mươi co
ro trong chiếc áo len sánh vai đi trên con đường vòng hồ
Xuân Hương của thành phố Đà Lạt.
Hai
đứa tôi giống nhau ở nhiều điểm. Cùng là con út trong
nhà. Cùng chạc tuổi nhau do đấy thân nhau từ hồi còn
bé. Hai đứa tôi cùng mang nghệ sĩ tính thừa hưởng từ
hai nhà văn nổi tiếng. Cùng ôm giấc mộng viết văn từ
nhỏ nhưng vì bản chất lười lĩnh và thiếu đam mê cả
hai chúng tôi đều không theo được nghiệp bút của cha.
Khi
chú Sáu của tôi qua đời năm 1942 tuổi của Giang lúc ấy
vỏn vẹn ba ngày. Khi bác Tam của Giang mất năm 1963 tuổi
tôi hai mươi ba.
Với
Giang, Thạch Lam là cái bóng trong tâm tưởng. Với tôi,
Nhất Linh là cái hình trong hồi ức.
Giang
mở đầu một bài hồi ký viết về cha mình bằng một
cái chết:
“Chết
là giải thoát một đời. Chết là đầu bên kia của sợi
giây ngày tháng. Một sớm kia, một tối nào. Tôi hay anh,
cũng thế. Bên kia cái chết là nội cỏ ngàn cây hoa mộng
hay bên kia cái chết là thảng thốt khổ đau. Tôi đã
nhìn thấy nhiều cái chết, nhiều khuôn mặt chết. Quá
nhiều. Nhưng không bao giờ, mãi mãi, tôi có thể hình
dung được một cái chết, một khuôn mặt chết thân yêu
nhất và buồn bã nhất của đời tôi. Cái chết của cha
tôi, Thạch Lam.” (Khói Hồ Bay - Thạch
Lam, cha tôi trong tâm tưởng).
Giang
kết thúc cũng một hồi ký về cha mình bằng một cái
bóng:
“Tôi
vẫn mơ tưởng đến cái thời ông sống, vẫn hoài hủy
đi tìm kiếm ông, bởi vì, tôi chưa bao giờ có ông. Còn
ông, ông có nhớ chăng đến đứa trẻ ông chỉ để mắt
nhìn thoáng qua, rồi gạt tay cho mẹ tôi mang đi chỗ khác,
truớc khi ông làm một chuyến đi xa, rất xa. Tôi nói với
ông: “không, con không có điều gì bận tâm cả”. Ông
giơ tay định vỗ vai tôi, rồi chợt ngừng lại: “chiều
rồi, chắc con phải về Hà Nội kẻo tối”. Đến bây
giờ tôi chợt nhớ ra là tôi lại sắp mất ông, tôi bật
khóc và ôm chặt lấy ông.
Hai
tay tôi ôm vào khoảng không. (Khói Hồ
Bay - Một buổi chiều đi chơi với Thạch Lam)
Năm
mươi năm qua...
Tôi
bất chợt lùi lại mấy bước nhìn phía sau lưng hai
người. Giang, cao hơn tôi, nặng nề hơn, tóc bạc xóa,
trắng như tuyết. Tôi, tóc hoa râm, ở gần đỉnh đầu
phía sau lộ một khoảng da đầu hói. Tôi nói:
–
Chúng mình gìa đi thấy rõ...
“Tôi
nhìn ra phiá sau ông, bầu trời hơi đục, có vẻ hiu hắt
của mùa thu. Một dải núi thấp nhấp nhô cắt những
đường viền mờ ảo, tím nhạt. Tôi hơi rùng mình, một
cơn gió lạnh lùa qua. Ông đứng sững giữa khoảng không,
trống và rộng, bàn tay phải để trên cằm, một ngón
tay, ngón tay trỏ, tựa trên đầu mũi cao và thẳng. Đôi
mắt sâu và đen nhìn bâng quơ ra phía trước, nhưng không
chủ đích, tựa như ông nhìn một hình ảnh nào rất xa
xôi trong quá khứ, không có ở nơi này. Tôi cúi xuống
loay hoay gỡ những bông cỏ may bám vào gấu quần, đã
lâu lắm, có thể hơn năm mươi năm, tôi mới gặp lại
những bông cỏ may trên cánh đồng - thời thơ ấu nghèo
nàn của những năm tản cư cùng anh chị và mẹ, như
những nhân vật không có thật ở một xóm Đìa xa xôi
vùng Nhã Nam, Yên Thế - thời đó ông đã chết rồi”.
(Khói Hồ Bay - Buổi chiều đi chơi
với Thạch Lam)
Giang
cũng quay lại nhìn. Hai đứa tôi có vài nét giống nhau
như tạc. Mắt sâu, mũi cao, lông mày rậm. Đó là tướng
của bà nội chúng tôi. Với đôi mắt sâu sâu, sống mũi
cao, lông mày rậm, bà mang nét lai của người tây phương
và truyền cho dòng Nguyễn Tường ba đời chúng tôi những
nét tây tây ấy. Giang nói:
–
Hôm nọ xem cuốn video kịch Đoạn Tuyệt tôi
thấy ông trông giống chú Bách quá. Ông có nhận thấy
không, chú Bách càng già trông càng giống tây lai.
Qua
những đối thoại bâng quơ như thế chúng tôi mở đầu
câu chuyện về dòng họ. Một chuyện mà chúng tôi vẫn
thường bàn trong lúc trà dư tửu hậu. Chúng tôi mặc sức
thả lỏng cho óc tưởng tượng.
Tưởng
tượng một câu chuyện hư cấu xẩy ra từ lâu lắm trong
thế kỷ 16 tại thành phố Hội An, sau này người Pháp
còn gọi là Faifo. Hồi đó Hội An là một nơi buôn bán
quốc tế phồn thịnh, nhiều thương nhân người Tây
phương như Hoà Lan, Pháp, Tây Ban Nha đã đến mở thương
hiệu ở đó. Ngoài ra Hội An cũng là cửa ngõ mà các cố
đạo người Bồ Đào Nha đến truyền giáo. Một mối
tình dị chủng hay một vụ cưỡng bách tình dục xẩy ra
giữa một thương nhân hay một ông cố đạo nào đó với
một người đàn bà bản xứ đưa đến một đứa con
lai. Rồi từ đó cái “gien” của đứa con lai truyền
qua nhiều đời, càng về sau nét lai càng nhạt, chỉ giữ
lại ở đôi mắt và sống mũi. Tôi hỏi Giang:
–
Ông là bác sĩ ông nghĩ liệu mình có thể
chứng minh câu chuyện tưởng tượng đó bằng DNA?
–
That’s possible! Tôi nghĩ đây là một cái thèse
tiến sĩ y khoa rất hay cho con cháu của chúng mình sau này.
Bên
hồ tây, một đêm đầu mùa thu, hai người đứng bên một
cây liễu. Trời cao xanh thẳm, gió hiu hắt. Bên trái hai
người là một bụi tre nhỏ, cành hơi ngả nghiêng theo
chiều gió. Chú Sáu tôi bàn với cha tôi về câu chuyện
văn chương.
–
Cành lá tre này cũng như những cành là tre
khác, không có gì đặc biệt. Nhưng tôi không bao giờ
nhìn ngắm một cành tre mà không thấy nổi lên trong lòng
những ý nghĩ và cảm giác lúc nào cũng giống nhau. Khi
thấy các lá tre thổi vút một chiều, tôi cảm thấy một
vang động âm thầm và kín đáo trong tâm hồn.
–
Chúng ta yêu mến cảnh vật và cảm thông
với thiên nhiên đã từ lâu lắm rồi. Giữa chúng ta với
cảnh vật, với cây cỏ, với núi non, có một sự quen
thuộc, một sự thân mật đằm thắm và sâu sắc lạ
lùng. Một cây đối với chúng ta không phải chỉ là một
cái cây: đó là một linh hồn đương sống, cũng mừng
vui và cũng đau khổ như chúng ta...
–
Người ta sinh ra là nghệ sĩ hay không, chứ
không thể học tập mà thành được. Muốn cố sức tìm
hiểu thế nào cũng không bằng cái “trực giác” nhiệm
màu của tâm hồn nghệ sĩ. Tả cảnh tre trước gió cũng
ngần ấy nét, ngần ấy chữ, nhưng sự cảm giác rộng
rãi trong không gian và thời gian của người nghệ sĩ chân
chính khiến nét họa có linh hồn, có vang động ra xa...
–
Có hai lối quan sát: một lối quan sát bề
ngoài và một lối quan sát bề trong. Trông bề ngoài thì
chỉ thấy được cái trạng thái sự vật của một cảnh
tượng: một hành vi chỉ là một hành vi, chứ không có
cái ánh sáng bên trong đem ra soi tỏ, giảng giải và làm
thành rộng rãi... Người ta có thể tập nghe cho tinh
tường, tập trông cho chu đáo, nhưng không có con mắt của
linh hồn thì không bao giờ soi thấu được cái bí mật
của tâm lý.
(Thạch
Lam - Câu chuyện bên gốc liễu)
Giang
bảo tôi:
–
Ông biết đấy. Mấy chục năm tôi làm cũng
khá nhiều thơ và viết cũng nhiều truyện ngắn. Thế mà
chả ra nổi một tập thơ hay in được một cuốn truyện.
Mấy tháng trước tôi chợt có ý định gom tất cả lại
xuất bản thành một cuốn sách xuất bản cho vui, vì thế
mới có chuyện tôi gửi ông nhờ ông đánh máy và layout
dùm. Bởi tôi rất dốt về computer.
Tôi
bảo Giang:
–
Hai cuốn sách của tôi xuất bản tôi tự trình
bầy lấy. Tôi làm cho ông thì cũng được nhưng không thể
nào đẹp bằng dân chuyên môn. Sao ông không nhờ những
tay nghề trình bầy và layout, và bỏ tiền in thật đẹp
và trang nhã?
–
Cũng được. Nhưng ông viết cho tôi đôi lời
giới thiệu phần văn xuôi được không?
Tôi
im lặng suy nghĩ. Tôi có thể viết cho Giang nhưng tôi
không biết viết cách nào. Sau khi bỏ ra gần tháng đánh
máy những bài viết của Giang, tôi đã nhập tâm. Thoáng
một cái, qua dòng văn của Giang, hình ảnh cha tôi hiện
lên lãng đãng trong sương mù.
Một
buổi sáng mù sương nào ở núi rừng Phi-Nôm, người bác
già đã dẫn tôi, một cậu bé chưa đầy mười lăm tuổi,
vào khu rừng sau nhà tìm lan. Căn nhà bằng gỗ nằm xa
quốc lộ, phía sau mở một con đường vào rừng. Qua một
con suối nhỏ róc rách những tiếng reo vui – Người
đi lâu chửa thấy về. Nhớ người lòng suối Đa Mê gợn
buồn – là tới rừng rậm. Mùa mưa,
rừng âm u và những con vắt lạnh như kim khí bám vào
người khiến tôi không có một chút thích thú nào. Ông
đi một đôi ủng cao-su cao đến đầu gối, mỗi lần
kiếm được một loại lan lại giảng giải tôi nghe. Tội
nghiệp tôi, trời lạnh và trí óc còn mơ đến những
bông hoa rực rỡ của cuộc đời, tôi nào có thấy những
cánh hoa thanh khiết và cao quí của núi rừng là đẹp.
Ông chỉ tôi ngửi từng loại hoa, nhưng hương thơm của
lan nhẹ quá, nhẹ đến nỗi khứu giác non nớt của tôi
chỉ thấy mùi đất ẩm và gỗ mục. Tháng tám năm đó,
ông làm những ngôi đèn ông sao bằng giấy bản mỏng và
cả ngày ngồi vẽ từng loại lan trên mặt đèn. Ngày rằm
đèn được thắp sáng bằng những ngọn nến nhỏ, những
bông lan như nở hết những cánh hoa đẹp nhất, lung linh
trong trận mưa nhỏ hạt. Bây giờ ông đã chết. Tôi ngó
bông lan mới nở, ngó những lá lan dài và thon nhẹ, những
chiếc rễ cây nhỏ bám vào đất ẩm của chiếc vỏ dừa
bổ đôi hay một thanh gỗ mục. Tôi đã già rồi chăng.
Tôi đọc hai câu thơ nhớ được về lan: Sắc
trong Thanh Ngọc hương thơm mộng. Một thoáng mơ tiên
thoảng xuống trần. (Khói Hồ Bay - Mộ Bia)
Khói
Hồ Bay phần văn xuôi gồm bẩy bài: ba hồi ký, ba tùy
bút và một truyện ngắn.
–
Ông Giang này, trong văn của ông có ám ảnh
thời tiết. Ba bài tùy bút trong cuốn sách của ông thì
hai bài có tựa đề “Mưa” và “Những ngày lạnh rớt”,
bài tùy bút khác “Thành Phố” và truyện ngắn “Biển
Trầm” nội dung cũng nhiều ẩm ướt và lạnh...
“Đó
là một chiều mưa đầu tháng sáu. Cơn mưa kéo dài từ
buổi sáng một cách buồn nản. Những lá cây ngang cửa
sổ lay động dịu dàng, hắt những giọt mưa vào mặt
kính rồi lại yên lặng kéo ra xa, lấp lánh. Tôi đã ngồi
im lặng hàng giờ ngắm những lá cây, cố tìm một bông
hoa nào còn sót lại. Những giọt mưa kéo dài thành sợi
nhỏ, như tơ trên mạng nhện, theo chiều gió quấn quít
vội vã. Buổi chiều lạnh lùng và âm thầm, như không
khí âm thầm đốt cháy thành than những thân gỗ tươi”.
(Khói Hồ Bay - Biển Trầm)
–
Ông nhớ có lần mình bàn với nhau về văn
chương, thế nào là một truyện hay? Truyện hay hay không
là tùy truyện, tùy người. Với tôi, truyện hay là phải
lưu lại cho người đọc một làn không khí bao trùm cái
không gian lẫn khí hậu của truyện.
–
Ông nói giống ý tôi. Truyện mà tạo được
một “khí hậu” theo tôi là truyện thành công. Ông chắc
đã đọc Snow Falling on Cedars của David Guterson. Đọc xong
truyện này người ta có thể quên hết những tình tiết
trong truyện nhưng cái khí hậu mà cuốn sách lưu trong
tôi, cái không khí ẩm lạnh đặc thù của miền tây bắc
nước Mỹ, nơi tôi sống mấy chục năm nay, thì vẫn thấm
mãi vào tôi rất lâu sau khi đọc.
–
Khi tôi đánh máy lại bài Biển Trầm tôi bỗng
nhớ đến truyện Đêm Vang của ông và tôi thấy văn
phong và cách dựng truyện của tôi và ông có đôi phần
giống nhau. Ông có thấy thế không?
–
Tôi cũng nhận thấy thế. Nhất là ở thể hồi
ký. Ông viết về chú Sáu tôi viết về ông cụ đều
không theo lối truyền thống mà theo lối văn chương, nó
gần với tùy bút hoặc truyện ngắn hơn là hồi ký. Lạ
một điều là những bài văn xuôi ông viết ở tuổi đôi
mươi, trong thập niên 70 của thế kỷ trước, trong khi
những bài tôi viết ở thế kỷ này, lúc tôi đã ngoài
60 tuổi. Vậy mà văn phong của hai đứa mình giống nhau
lắm. Ông có nghĩ là cái giống nhau ấy có liên hệ xa
gần gì với cái “gien” của dòng họ?
–
Có thể ông đã đi quá xa về tính di truyền.
–
Không đâu. Ông tin là có di truyền trong nét
chữ không? Tôi thì tôi tin lắm. Ông cụ tôi chữ viết
nhỏ như chân kiến nhất là về lúc cuối đời. Chữ tôi
cũng thế, càng về già càng lí nhí y như chữ ông cụ.
Người ngoài nhìn vào khó phân biệt tuồng chữ của hai
cha con. Gần đây tôi khám phá ra, một cách gần như sợ
hãi, tuồng chữ của thằng con trai tôi, dù nó viết bằng
Anh ngữ, cũng nhỏ nhí một cách bất thường.
Chúng
tôi im lặng. Hai đứa nhìn ra mặt hồ. Trên mặt hồ thu
phẳng lặng hai con vịt sóng đôi lướt trên mặt nước
tạo nếp nhăn rẽ hai bên. Đó là đôi Canadian geese. Con
lớn màu tuyệt đẹp: đầu đen lánh, cổ trắng, đôi
cánh màu lục biếc. Con nhỏ màu đất tầm thường giống
màu cánh con chim sẻ. Tôi nghĩ thầm: loài vịt Gia Nã Đại
này thật lạ, con đực lớn xác nhưng lười biếng và
thụ động trong viêc truyền giống, trời phải phú cho
chàng một bộ mã thật đẹp để quyến rũ những nàng
vịt mái.
–
Ông Giang này, cái này thì tôi tin rằng do di
truyền: nỗi buồn bàng bạc trong văn ông. Một nỗi buồn
không nguồn cội từ trong hồn tỏa ra ngoại giới y như
câu thơ mở đầu bài Thu Rừng của Huy Cận: Bỗng
dưng buồn bã không gian... Hầu như
tôi luôn luôn bắt gặp trong mỗi đoạn văn ông một nỗi
buồn thầm kín nó lấp ló đằng sau mọi niềm vui như
chỉ rình chờ để xuất hiện vào những lúc bất ngờ
nhất. Văn ông, cũng như văn Thạch Lam, Nhất Linh bàng bạc
cái sợi tóc rất mỏng manh của hạnh phúc. Ông đã thừa
hưởng mà không tự biết cái “gien” buồn nằm sẵn
trong dòng máu mình, nó nằm trong ông kỹ hơn người khác
vì ông có bản chất thi sĩ và vì ông là nhà thơ duy nhất
của dòng họ.
“Có
những nỗi buồn đến rất tình cờ, không báo trước.
Đang ngồi nói chuyện với mấy người bạn thân, nhấp
một ngụm cà phê còn giữ đầy hơi nóng, bỗng cảm thấy
cái chất nước sánh đen kia thấm vào lưỡi, dịu dàng
và buồn bã biết bao. Một người bạn nào, sau khi hút
một hơi thuốc dài, những ngón tay đặt trên đầu gối
hơi rung rung, đọc một câu thơ ở đâu đó bất chợt
nhớ được, rồi lại im lặng nuốt những làn khói mỏng
và đục như vẩn mây vào tận trong phổi. Lồng ngực
bỗng ran lên một hơi ấm rất nhẹ và êm, tưởng chừng
những câu thơ đó đã biến thành máu chạy loang vào cơ
thể. Những nỗi buồn ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta,
không hẹn hò, như một người tình nhân đến tình cờ
vào một ngày trời mưa, rất mưa. (Khói
Hồ Bay - Những ngày lạnh rớt...)
Cái
buồn đọng trong không gian của một thành phố, dù là
một thành phố dấu yêu.
Tôi
chợt hiểu tại sao tôi không thể rời xa thành phố này.
Thành phố như một cái nôi đã ấp ủ tôi bao nhiêu năm,
đã đón tôi như đón một cánh bướm non. Có con đường
nào tôi không từng đi qua, những quán nước tiệm ăn nào
tôi đã cùng bạn bè và người yêu ngồi suốt thời niên
thiếu. Ngôi nhà của mẹ tôi trong một ngõ hẻm tồi tàn,
những nỗi đớn đau của cuộc tình tan vỡ. Đêm nào tôi
còn đi lang thang khắp các hè đường, khóc nức nở một
mình, sát mặt vào vỏ cây cho đến khi rướm máu. Bây
giờ mẹ tôi đã chết, nhưng tôi cảm thấy mỗi phân
vuông không khí trong thành phố này mẹ tôi đã thở, và
tôi đang thở mỗi ngày luồng không khí ấm áp đi qua
buồng phổi yếu đuối của bà. Có quá nhiều người
trong thành phố, nhưng thành phố sống trong tim mỗi người
như một nỗi mến yêu thầm kín, còn dấu tận đáy lòng.
(Khói Hồ Bay- Thành Phố)
Cái
buồn nằm sẵn trong sự nhàm chán của cuộc sống thường
nhật.
“Chồng hồ sơ trình ký còn nằm trên bàn,
không bao giờ thấp đi, tựa như có một bộ máy đẩy
hàng ngàn hàng vạn hồ sơ khác, tích tụ từ muôn đời,
được dấu kín đáo dưới mặt bàn hay chôn trong lòng
đất. Tôi đã làm việc bao nhiêu buổi chiều trong đời
và còn bao nhiêu buổi chiều chờ đợi. Đã gần tới giờ
nghỉ việc. Ngoài cửa phòng là một hành lang rộng, giờ
này chắc những nhân viên đã thu dọn giấy tờ, ngồi
nói chuyện chờ tiếng kẻng khua vang rời rạc hay chờ
tôi ra về sớm hơn. Về nhà, hôn nhẹ lên môi người vợ
quen thuộc đến độ không ý thức được ý nghĩa của
sự tiếp xúc, như phản ứng bình thường đã được lặp
đi lặp lại mỗi ngày, như bước chân vào cửa, thay quần
áo, đọc sơ qua tờ báo phát hành buổi chiều, chờ đứa
con lớn đi học về rồi cả nhà quây quần quanh bàn ăn.
Những món ăn thường lệ không gây thích thú, được sắp
đặt theo một thời khóa biểu vô hình. Nói chuyện vu vơ
về người bạn này người bạn khác. Buổi tối nay có
người rủ đánh bài hay giục vợ sửa soạn đi coi một
phim mới trong tuần, hoặc thăm người chị ở tỉnh xa
mới về. Mấy đứa con ngồi coi truyền hình, cãi nhau về
chương trình phát hình được đăng tải phần nhiều sai
lầm trên các cột báo nhỏ trang tư. Tôi bỗng thấy thèm
uống một ly cà phê trên phố, một mình, sống lại cái
không khí buồn nản nhưng quyến rũ, những ngày rất xa,
rất xa và không bao giờ còn trở lại.”. (Khói
Hồ Bay - Biển Trầm)
*
Hai
đứa tôi đi được nửa vòng Green Lake. Nhìn qua mặt hồ
phía bên kia là rặng phong mà mùa thu đã chuyển sắc lá
sang màu đỏ ối. Thu ở Washington hay thu ở Vermont cũng
thế thôi. Lao xao. Rào rạt. Mênh mông. Và sầu lá đỏ...
gió
thổi lao xao thềm cỏ úa
rào
rạt ngàn cây lá đổi màu
trên
những sắc xanh sầu lá đỏ
quạnh
hưu vàng rơi hồn mênh mông
(Khói
Hồ Bay - Thu ở Vermont)
Không
như Giang, tôi không phải là nhà thơ. Tôi không bao giờ
làm thơ. Nếu cố gượng làm thì hầu như chắc chắn thơ
tôi sẽ dở. Nhưng trong thâm tâm tôi ước ao mình là thi
sĩ hơn là nhà văn bởi vì không hiểu sao tôi vẫn cho thơ
là đỉnh nghệ thuật cao nhất của loài người.
Tôi
chỉ có một an ủi là hình như văn phong của tôi cũng
bàng bạc chất thơ, như tôi đã nhìn thấy rất rõ trong
văn xuôi của Giang.
Xin
cảm ơn Giang về đoá hoa hồng mà Giang đã tặng cho muôn
vàn những người không bao giờ làm thơ, trong số có tôi.
“Để
hiểu một bài thơ trước tiên phải là thi sĩ. Ôi cái
lập luận đanh thép đó vô duyên và trơ trẽn làm sao.
Người ta không phải cứ làm thơ là trở thành thi sĩ. Có
người suốt đời không làm một câu thơ nào cũng có thể
là thi sĩ biết bao. Phải chọn giữa một người làm thơ
không có tâm hồn thi sĩ và một thi sĩ nhưng không bao giờ
làm thơ, tôi xin gửi tới những người không làm thơ bao
giờ đoá hoa hồng của một mùa đẹp nhất.” (Khói
Hồ Bay - Những ngày lạnh rớt...)
Nguyễn
Tường Thiết
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Về chuyện Genes, mũi cao..cũng có thể là di truyền Ấn Độ từ tk I khi các thuong nhân Ấn, sư sãi Ấn sang xứ Việt, Chiêm..Tôi gập một số bạn quê LuyLau, rất giống người Ấn, gặp người Tầu Tứ Xuyên mũi cao, da ngăm ngăm..
Trả lờiXóa