Mai Kim Ngọc
LTS. Bài này được trích từ
cuốn sách 'Nguyễn Mộng Giác và Bằng Hữu' do bạn bè của nhà văn Nguyễn Mộng Giác
viết và xuất bản sau khi nhà văn qua đời. Cuốn sách sẽ được ra mắt trong buổi
tưởng niệm Nguyễn Mộng Giác nhân 100 ngày mất của nhà văn, tổ chức tại Hội trường
Văn Lang, 14861 Moran St, Westminster CA 92683 vào lúc 1 giờ trưa ngày thứ Bảy,
6 tháng 10, 2012.
*
Giao tình trên ba thập niên của Giác
với tôi bắt đầu bằng chuyện tử sinh và kết cục cũng bằng chuyện
sinh tử. Câu chuyện nghe buồn, nhưng thật ra không buồn lại có nét
tích cực. Hôm nay tôi sẽ khai triển điều này trong bài văn
cuối cùng dành cho bạn.
Câu chuyện tất nhiên liên hệ đến anh
Võ Phiến, một nhà văn lớn như mọi người đã biết. Còn tôi thủa ba
mươi năm trước thì tương tự như mọi y sĩ trung niên, bỗng dưng thấy
cuộc sống của mình và của bệnh nhân có khi như bắt chước tiểu
thuyết, và một vài kinh nghiệm trong nghề
có thể dựng thành truyện ngắn truyện dài.
Ngắn gọn là tôi đưa anh Phiến xem
xấp truyện vừa viết xong. Một nhà văn lớn như anh chắc đã khá đủ
phiền toái vì đám người viết nghiệp dư quấy rầy, không xin ý kiến
thì nhờ thảo cho một bài tựa. Nhưng biết vậy mà vì ham viết nên tôi vẫn lầm lì đưa anh đọc truyện ngắn
đầu tay của mình. Không biết vì nhân quả nào, hành động táo bạo lại
tạo ra một chuỗi sự việc thuận lợi bắt đầu cho một giao tình văn
học kéo dài trên ba thập niên với Giác.
Anh Phiến đưa truyện tôi cho Giác
đọc. Khoảng một tuần sau tôi nhận được một bưu kiện nhỏ, trong có lá thư chủ nhiệm tờ Văn Học cho hay sẽ chạy truyện ngắn
của tôi ngay số tới. Trong bưu kiện
còn có cuốn Ngựa Nản Chân Bon,
tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Mộng Giác sáng tác những tháng ngày
ngồi bên đảo Ku Ku đợi thủ tục nhập cảnh Mỹ. Lá thư rất tâm tình do
Nguyễn Mộng Giác ký, và cuốn Ngựa
Nản Chân Bon có lời tác giả đề tặng ưu ái như của nhà văn cho
nhà văn, tuy hồi ấy tôi chưa viết lách gì đáng kể.
Tôi cảm động vì sự đằm thắm của
tờ Văn Học. Nửa đời người sinh
họat với báo chí y tế, tôi đã quá quen với những lá thư tòa soạn tuy
rất đẹp rất lịch lãm, nhưng gọn ghẽ không bao
giờ dài quá 60 chữ dù để nhận đăng hay không nhận đăng tài liệu gửi
đến. Giao tình trong sinh hoạt nhân văn với bạn đồng hương là một ấm
tình không thể có một nơi nào khác.
Tôi tức thì đọc Ngựa Nản Chân Bon, thú vị với từng truyện ngắn, từ truyện
đầu đến truyện cuối. Qua mỗi nhân vật, mỗi cảnh đời, Giác giúp tôi
thấy được phần nào người và việc
miền Nam trong những năm tháng tôi đã ra ngoại quốc. Theo đề nghị của
Thơ Thơ thuộc nhóm biên soạn cuốn Tưởng Niệm Nguyễn Mộng Giác, hôm nay
tôi ngồi viết lại những cảm nghĩ về anh với một hoài niệm êm đềm.
Điều tôi muốn nói trước tiên là con
người Nguyễn Mộng Giác. Điểm đặc biệt đáng quý nơi anh là sự trung
thực. Giác không bao giờ giả vờ yêu thương ai hay tỏ ra thích thú điều
gì mà anh không thực tâm. Tôi nhớ đến tính cương trực của Phùng Quán,
không dễ dàng xoay chiều theo những áp lực chính trị, xã hội, giao
tế thời thượng. Ông Quán có bài thơ Lời
Mẹ Dặn nổi tiếng về vụ này, với đọan thơ rất hùng truyền tụng
phổ thông trong văn giới:
… Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu...
Có lẽ mỗi hòan cảnh, mỗi đối
tượng cũng như mỗi đối phương mỗi khác, và Giác không phát biểu như ông
Quán dù trong văn chương hay ngòai đời. Cũng có lẽ văn nạn của Giác
không trầm trọng như của ông Quán, và chưa ai cầm dao dọa giết anh.
Nhưng ai theo dõi những sôi động của
cộng đồng tị nạn khi Bolsa mới thành lập đều biết Giác cũng gặp khá
nhiều khó chịu vì sự trung thực của mình. Lý do là anh không vờ đi
được những nhược điểm của một số công chức quân nhân bất xứng của
Đệ Nhị Cộng hòa, mặc dù anh kiêu hãnh vì miền Nam. Anh thường nói dù thua trận, miền Nam vẫn có cung cách
sống, truyền thống giáo dục, hệ thống tư pháp, nền tảng văn hóa
nghệ thuật vân vân… cao hơn những người thắng trận. Trong Ngựa Nản Chân Bon (NNCB), nhân vật của anh kính cẩn khi kể lại cái
chết siêu việt của vị cao tăng tự thiêu vì đạo pháp, cái chết oai
hùng của tư lệnh quân khu miền Tây hay của trung tá cảnh sát Sài Gòn
tự vẫn tại tượng đài chiến sĩ trước quốc hội... Nhưng anh không quên
nhắc tới quán nước Givral gần đó, nơi tụ họp của nghị viên và chính
khách mà một số bất xứng bất tài
chỉ biết phe phỡn với nhau về những đề tài nham nhở.
Nhưng chuyện tôi muốn bàn hôm nay
không phải những thương ghét nhất thời của nhóm này nhóm nọ, mà là
cái ưu tư của Giác trong NNCB, và có lẽ gián tiếp hay trực tiếp trong
nhiều tác phẩm của anh về một đề tài cao hơn mà một nhà văn nghiêm
túc không thể né tránh. Đó là chuyện tử sinh.
Giác dựng NNCB là cảnh bốn thuyền
nhân tị nạn trên đảo Ku Ku, họp nhau uống ấm trà dã chiến tại lán
của một linh mục đạo Gia tô, sau khi tu sĩ cử hành xong tang lễ cho
một đồng hương xấu số. Khách của linh mục gồm một trung úy trẻ có
thói quen nhà binh dứt khóat mọi chuyện, một thầy giáo trung học
hình như dậy văn hay triết, một nhà báo bất đắc dĩ, và một ông cụ
cán sự hưu trí từng trải, biết người, biết việc, biết đời, với kinh
nghiệm sống trải dài từ hồi Pháp thuộc cho đến ngày miền Nam thất
thủ…
Nhân vừa dự đám ma về, mọi người
bàn về cái chết. Nhờ quá trình và kinh nghiệm sống khác nhau Giác
đã nghiên cứu và dành cho từng nhân vật, một quang phổ ý kiến nhờ
đó mà được khai thác. Còn nữa, đám thuyền nhân xem ra rất thân nhau
nên câu chuyện gần như không kiêng kỵ, thậm chí có người hỏi linh mục về đức tin và về thái độ của
nhà tu với chuyện tự vẫn dưới ánh sáng Phúc Âm. Câu chuyện nhờ vậy
mà được ráo riết mổ xẻ cho đến ngọn nguồn.
Cái chết đầu tiên do linh mục kể.
Kẻ bất hạnh là một học giả hay một lọai trí thức nào đấy, rất
giàu về sách, còn nghèo mạt rệp về mọi phương diện khác. Hôm tự tử
ông ta sai vợ đi chợ để rảnh rang thi hành ý định. Còn lại một mình,
ông ta treo giây thòng lọng lên trần, không dùng ghế đẩu mà xếp sách
thành chồng để leo lên. Chui đầu vào thòng lọng xong, ông đá cho chồng
sách đổ.
Ẩn dụ dùng chồng sách thay thế chiếc
ghế đẩu khi treo cổ tự tử rõ ràng thích ứng với nhà trí thức chán
đời. Sống với sách mà chết cũng với sách, quả là Giác dựng truyện
công phu. Nhưng tôi thắc mắc là tại sao ông ta tự tử. Theo bố cục, sự
việc chắc không ăn nhằm đến chuyện quốc cộng. Còn cảnh nghèo túng
thì tôi nghĩ không đủ mạnh để làm nhà trí thức từ giã cuộc đời và
bỏ lại vợ con trong cảnh bơ vơ. Kho sách bán ký cũng mang lại ít
nhiều thu họach đủ cho ít nhất một thời gian. Cái trang bản thảo
cuối cùng với dấu hỏi và dấu chấm than không thỏa mãn như một lý
giải. Tại sao ta ra đời và tại sao
cuộc sống chỉ là một chấm than lớn
là những ý niệm hơi quá sang cho hòan cảnh nghèo túng của hai vợ
chồng. Ưu tư cũng không thực tiễn và quá siêu hình để một con người
trí thức bỏ lại cuộc đời cũng như trách nhiệm với vợ con. Tôi tiếc
đã không hỏi Giác thêm về ẩn dụ của câu chuyện, như đã thóang dự
tính khi đọc NNCB lần đầu. Nhưng dù
sao tôi nghĩ Giác đã xử dụng được cái chết này để đưa ra ý kiến
của một giáo sĩ về đề tài tự vẫn và sự cấm kỵ của Phúc âm.
Rồi một người trong hội uống trà
cho rằng cái chết tự vẫn bản chất có ý nghĩa cao siêu. Đó là một
phản ứng tích cực cho thân phận con người. Đã không chọn được thời
điểm cũng như nơi chốn khi ra đời, tự vẫn là dành lấy quyết định để
chết thế nào, bao giờ, và ở đâu…
Khi mọi người đã kể lại và cho ý
kiến của mình về những cái chết khả kính khác nhau, từ tử vì đạo,
vì thế cuộc, vì dân vì nước, tới vì danh dự trai thời loạn… cụ cán sự già mới phát
biểu ý kiến. Cụ phát biểu khi cuộc trà của linh mục sắp tàn, có
người hỏi cụ có sợ chết không. Cụ bảo sợ. Và chính xác hơn, cụ
nói cái chết cụ sợ nhất là cái chết của một thây ma biết đi. Thây ma
ấy là nhà văn Thanh Tịnh, người bạn học tài hoa đã sớm thành thần
tượng của cụ với những bài như ‘Ngày
Khai Trường’ trong Quê Mẹ. Cụ
thấy ‘Ngày Khai Trường’ hay ho tầm cỡ ‘La
Rentrée des Classes’, một trích đọan
tác phẩm của Anatole France mà sở giáo dục Bảo Hộ đã cho in
chung với những trích đọan tác phẩm của các nhà văn Pháp nổi tiếng
khác để làm sách giáo khoa trung học.
Nhưng gặp lại sau 75, thần tượng đã
đổi thay để trở thành cái máy nói, chuyên quảng cáo cho ông Hồ. Thanh
Tịnh suy tôn lãnh tụ bằng những lời lẽ cũng như điệu bộ nhờ lập đi
lập lại nhiều lần đã nhuần nhuyễn như con múa rối có lắp sẵn dây
cót và bài bản…
Và cụ cán sự già lẩy thơ Chinh
Phụ Ngâm. Chính xác hơn, cụ đọc:
‘Dòng
nước sâu ngựa nản chân bon’
Dòng nước sâu ẩn dụ cho sự chết.
Dòng nước không đáy tất nhiên là
đáng sợ. Nhưng nếu không dám nhảy vào thì cụ cũng nhất định không
thành con ngựa gỗ, hay thảm hơn một thây ma biết đi như Thanh Tịnh để
quảng cáo cho ông Hồ…
Truyện của Giác là những trằn
trọc nghiêm túc về cái chết và những suy tư nặng tính siêu hình. Nói
chung, thế hệ tôi dù không theo nhân văn đều được học ít nhiều về
Triết. Những ai theo nhân văn khi lên đại học, thì vốn liếng về Triết
tất nhiên dồi dào. Do đó, khi viết chúng tôi thường có xu hướng để
Triết len lỏi vào văn bài, không bằng lời thì bằng ý.
Tuy nhiên, những người như tôi triết một cách tài tử. Những
phiền muộn của các đề tài thâm sâu, thậm chí đen tối, khi viết xong
chỉ cần một giấc ngủ ngon là rũ sạch ra khỏi đầu. Còn Giác, tôi
nghĩ chúng theo đuổi anh lâu hơn. Anh đủ ám ảnh về thân phận con người
để dựng ra NNCB với chủ đề nghiêm chỉnh về chuyện tử sinh.
Rồi chúng tôi ít gặp nhau. Anh vì
sức khỏe bỏ tờ Văn Học, còn tôi thì một vài sinh họat mới làm xao
lãng chuyện viết lách. Gần đây tôi nghe anh đau nặng, một căn bệnh
ngòai chuyên môn của tôi nên tôi không trực tiếp giúp anh được chuyện
gì.
Tôi thỉnh thỏang đến thăm khi anh
còn ra ngòai được. Lúc đầu chúng tôi có khi còn đi ăn trưa với nhau,
dùng lại cái món bí-tếch anh thích khẩu và về những chuyện văn
chương anh tâm đắc. Bệnh anh dần dần nặng hơn, chuyện kiêng khem mỗi
ngày mỗi gắt gao, và ly rượu đỏ cũng tuyệt đối không được đụng tới.
Bệnh anh bớt đi rồi lại tái phát,
và anh ra vào bệnh viện gần như hàng tháng. Lần cuối đến thăm Giác,
tôi nhìn thần sắc và nghe báo cáo của nhân viên y tế, biết anh không
còn được bao lâu. Anh nằm li bì trên giuờng bệnh, lồng ngực di động
lên xuống theo nhịp thở nặng nề. Giác
xấp xỉ cái tuổi 70 cổ lai hi, bệnh tật ngặt nghèo lại nhiều
biến chứng, tôi chỉ mong anh ít đau đớn, điều mà các y sĩ của anh có
thể gọi là thành công.
Ngự Thuyết và tôi đứng bên giường
tưởng anh đang hôn mê, nhưng sau năm mười phút anh mở mắt. Anh tỉnh táo
tức thì, câu chuyện mạch lạc như mới từ một giấc ngủ bình thuờng
thức dậy. Gặp bạn đến thăm, Giác say sưa nói chuyện. Tất nhiên là
chuyện văn học. Lần này đề tài là Sông
Côn Mùa Lũ, với sự khó khăn khi viết đọan Bắc Cung Hòang Hậu Lê
Ngọc Hân ra mắt Chính Cung Hòang hậu Phạm Thị Liên vợ cả vua Quang
Trung.
Anh cười, cái cười méo mó vì chưa
lắp răng nhưng sung sướng và vui thú. Tôi không nhớ từng câu từng chữ
chính xác, nhưng đại để anh nói đọan này là một thử thách cho người
viết. Hòan cảnh căng thẳng và đối
chọi khi hai bà gặp nhau là chuyện thường tình của việc chồng chung
chưa dễ ai chiều cho ai, ngay trong truyện Kiều. Nhưng trong cảnh vương
giả và gốc nguồn khác biệt của hai hoàng hậu, nhân tâm lại càng rầy
rà và nhà văn lại càng vất vả. Vậy mà anh đã dựng được sự căng
thẳng ngay từ khi Chánh Cung rót trà mời khách. Anh thú vị đã đặt
được bàn tay thô kệch mưa nắng lao động của gái Bình Định bên bàn tay
thanh tú ngọc ngà của công chúa Bắc Hà. Giác nghĩ chính anh cũng ấn
tượng vì nghịch cảnh hai bàn tay, và nhân vật của anh là hai bà Hòang
cũng ngỡ ngàng. Nhưng cột khéo thì mở cũng phải khéo, và anh đã
dùng cậu bé Quang Toản làm gạch nối hai người đàn bà nguồn gốc và tư
thế quá khác nhau…
Thấy anh vui vẻ chuyện trò, tôi
nghĩ các bác sĩ của Giác chắc biết phong tục Việt Nam nên đã giấu
anh tình trạng bệnh lý tuyệt vọng. Nhưng tôi lầm khi chúng tôi sắp ra
về, anh nói ra đi anh không còn gì
tiếc nuối. Anh mãn nguyện với những
gì cuộc sống đã dành cho anh. Anh đã viết được những cuốn
truyện anh muốn viết, anh bằng lòng
với sự thành đạt con cái đã gặt hái, và anh yên ổn ra đi. Giác bình
thản và thư thái. Giọng anh chững chạc, không chút nghẹn ngào hay xúc
động khi nói tới cái chết của bản thân. Giác không còn vẻ ưu tư tôi
thường thấy nơi anh khi anh khỏe.
Tôi lại nhớ đến Ngựa Nản Chân Bon. Tôi nhớ đến cái trăn trở về sự chết của đám thành viên
hội uống trà dã chiến mà tôi nghĩ cũng là của chính tác giả. Tôi
ôn lại những cái chết duyệt qua trong truyện ngắn ấy.
Phê phán hay ngưỡng mộ ai thì NNCB
quá rõ ràng. Nhưng Giác tâm đắc với cái chết nào, bây giờ tôi mới
rõ. Cái chết của Giác không giống cái chết của các ông tướng tá oai
hùng của miền Nam thời tháng tư 75. Thật ra anh không thất bại trong
việc anh làm là viết văn. Anh cũng không thích nghi với cái chết kiểu
cách trí huệ và đầy ẩn dụ cao siêu mà mơ hồ của nhà tư tưởng nọ
khi ông ta leo lên chồng sách để treo cổ. Sau cùng, Giác không bao giờ
chết như của con ngựa gỗ Thanh Tịnh nào đó mà tuy tim còn đập phổi
còn thở nhưng lương tâm cùng liêm khiết đã ra đi chỉ còn để lại một
thây ma.
Nếu mỗi chúng ta cuối cuộc đời
đều đứng trước một dòng nước sâu có lẽ không đáy, thì dòng nước ấy
không làm Giác sợ hãi. Giác tự tại lội xuống, không khẩu hiệu, không
cường điệu, không đại ngôn…
Mai Kim Ngọc
Cali, tháng 8, 2012.