Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012
Ước Gì Tôi Có Thể Sở Hữu Khuôn Mặt Của Vĩnh Hằng (*)
Carsten
Jensen
Bùi
Vĩnh Phúc dịch
Carsten
Jensen là một tác giả Đan Mạch. Sinh năm 1952, ông nổi
danh là một nhà phê bình văn học và ký mục gia cho một
nhật báo ở Copenhagen. Trong thập niên 1990, ông đã được
gửi đi làm việc ở khắp nơi trên thế giới, kể cả ở
Yugoslavia và nhiều thành phố tại châu Á, cho những đề
tài báo chí quan trọng thời đó. Là tác giả của sáu
tập tản văn và hai tiểu thuyết, cũng như tác giả của
nhiều bài phóng sự quan trọng, Jensen được đánh giá
cao qua những bài báo và tác phẩm của mình. Chương dưới
đây, “Would I Could Own The Face of Eternity”, được lấy
trong tập du ký nhận định I
Have Seen The World Begin / Travels through China, Cambodia, and
Vietnam. Tác
phẩm được các nhà phê bình và báo chí Tây phương đánh
giá cao với những cụm định ngữ như: “những nhận
xét [của Jensen] về mặt xã hội và lịch sử thế giới
xen kẽ với những mô tả về các vùng đất và con người
một cách lịch lãm và gợi hình, gợi cảm”
(The Independent / London),
“đầy những
hình ảnh, âm thanh và mùi vị của Á châu”
(Sunday Times / London),
và, một câu của
tờ Politiken
(Denmark): “Với
hiểu biết chuyên sâu và cái nhìn tinh tế của tác giả,
tác phẩm này đã đặt ông vào cùng chỗ với những tác
giả kinh điển như Bruce Chatwin, André Malraux và Jean-Paul
Sartre.”
Các
chú thích cuối bài là của người dịch.
BVP
Trong
vai trò của một khách du lịch, bạn không phải là người
vô hình, nhưng thật ra thì bạn trở nên có hình tướng
theo một cách thế đặc biệt. Mọi người nhìn vào bạn,
hoặc không phải thế, họ không nhìn, họ trố
mắt trừng trừng, nhưng họ trố mắt
nhìn bạn như nhìn một người lạ và họ không trông đợi
một người lạ phải tuân thủ những quy tắc đạo đức
và tiêu chuẩn của họ.
Họ cũng chẳng biết gì về những thứ ấy của
anh ta; thậm chí họ có thể ngờ rằng
anh ta chẳng có quy tắc hay tiêu chuẩn gì. Khi chúng ta nói
rằng một người lạ sống theo một mã đạo đức khác,
điều chúng ta thật sự muốn nói là anh ta chẳng có một
cái mã đạo đức nào cả—cái mã đạo đức của chúng
ta là cái mã duy nhất hiện hữu trên đời. Và chẳng
phải chính chúng ta cũng thích đi thăm nhà thổ và phạm
các loại tội ác này nọ trên những vùng đất lạ hay
sao? Sự kiện không một ai biết chúng ta làm cho chúng ta
dễ tự tha thứ cho chính mình.
Là
một người lạ có nghĩa là được tự do, và kinh nghiệm
cái sự nhẹ bẫng, cái tính vô trọng lượng của con
người mình. Lúc ấy chẳng còn có ai để bảo với bạn
rằng bạn là người này người nọ—và bởi thế, bạn
chẳng là ai cả. Nếu André Malraux đã đúng khi ông ta
viết rằng “Âu châu tin tưởng là bất cứ một thứ gì
không bắt chước hiện thực của nó thì chỉ biểu hiện
một giấc mộng” thì điều này giải thích lý do tại
sao châu Á lại hấp dẫn đến vậy: đó chính là cái cơ
hội được du hành qua một giấc mộng, việc thả lỏng
cái căn cước và ý chí của mình và tự buông thả mình
cho sự dẫn dắt của những sức mạnh khác; việc trầm
mình vào vùng nước tối đen của vô thức và trở nên
vô hình, ngay cả đối với chính ta. Cái giấc mộng thuần
túy của sự lãng du và của hành động, của sự bị dẫn
dắt bởi ngẫu hứng, bởi ham muốn bất chợt, bị uốn
nắn và bị thử thách vượt khỏi những giới hạn của
con người mình, bị tái sinh để trở thành nửa tội
phạm, nửa trẻ thơ. Đó chính là lý do tại sao du hành
lại là phương tiện của tuổi trẻ, một con đường
trôi nổi cho sự tự khám phá và cho những khởi đầu
mới. Đối với một người du lịch có tuổi hơn, có thể
là một kinh nghiệm có tính sỉ nhục và làm xuống tinh
thần cái việc khám phá ra rằng cái tính cách mà ta tin
là đã được xây dựng hoàn chỉnh và bền vững, thật
ra, chả là cái gì cả ngoài việc nó là dấu ấn của
môi trường chung quanh. Nhưng người ta cũng có thể thấy
là mình được tự do, thoát khỏi một vai trò đã cũ kỹ
và già cỗi; thoát khỏi một cuộc sống với những quặt
ngang rẽ dọc không đúng ý. Thật là một điều hấp dẫn
chạy đuổi theo tuổi trẻ của chính mình, bay nhảy trong
nỗi hoài nhớ để tìm kiếm lại những cơ hội đã mất,
và người ta luôn luôn đối mặt với cái nguy hiểm là
họ có thể tìm lại được chúng. Khi bạn xuất hiện vô
danh trong những môi trường xa lạ, chuyện gì cũng được
phép, và những ham muốn của tuổi trẻ trước cuộc sống
lại được nâng dậy. Chúng không còn thơ ngây nữa nhưng
bị biến đổi thành những ham thích lầm đường lạc
lối và thành sự tự mãn. Ừ, tại sao không? Chẳng có
ai ở đấy để mà dòm với ngó.
Kết
quả là một sự tự do mang mầu sắc cay đắng phẫn nộ.
Những tâm hồn yếu đuối không thể đối mặt với việc
được cho nếm trải cái hương vị của những khả thể
nằm trong chính họ. Những tâm hồn dũng mãnh thì có thể,
nhưng họ sử dụng cái tự do này để khám phá những
điều được tiết hãm và sự cần thiết phải làm như
thế ở một giai đoạn nào đó trong cuộc sống. Việc
phải đối diện với sự vô danh của chính mình là một
điều tốt, vì trong những con mắt nhìn thấu suốt qua
ta, có sự thật nằm ở đó. Ta nhìn những con người
khác, tưởng tượng chính ta là cái thước đo của họ.
Thế rồi ta khám phá ra được rằng chính họ là thước
đo của ta, và ta bị đưa xuống cái vị trí khiêm nhượng
của mình.
Tôi
lên đường không mang theo một ảo ảnh có tính hoài niệm
nào; tôi không đi tìm kiếm con người tuổi trẻ của
mình hoặc những khả năng không giới hạn của tuổi
trẻ. Tôi không tìm kiếm bất cứ sự giải phóng nào và
tôi tự cho rằng tôi biết được những giới hạn của
mình. Dù sao, Việt Nam đã tự phô bày ra trước mắt tôi
như một đất nước của những vũ trụ sóng đôi, liên
tiếp đưa tôi đối mặt với những phương cách hiện
sinh mới, những căn cước khác, cả một chuỗi những
khả năng để thể hiện những con người khác biệt của
mình. Tôi không bị choáng váng say sưa vì cái tự do của
tuổi trẻ; cái đánh động tôi hoàn toàn khác và mãnh
liệt hơn nhiều: cảm thức về tính chất hoàn toàn mềm
dẻo, dễ uốn nắn của con người mình. Tôi có thể là
một kẻ giết người, một tên trộm, một kẻ xâm hại,
làm hư hỏng trẻ vị thành niên; cái đất nước này cho
phép tôi chọn lựa mọi sự trong chính sự vô danh của
tôi, sự vô danh ấy được treo lửng lơ như một đám
mây che chắn những hành vi của tôi và tôi ý thức được
sự đáp ứng của chính mình. Tôi bị dụ hoặc và lôi
cuốn: có vẻ như tất cả những xung năng, những kích
thích đó đều nằm ở đấy, trong tôi, sẵn sàng và chờ
đợi. Việt Nam là một mảnh đất ở đó tôi có thể bị
thất lạc ngay trong chính con người mình, một mảnh đất
của những cơ hội nội tại, và tôi đã hơi bị thất
lạc và phạm vào một tội ác nhỏ. (Nhưng chẳng phải
những tội tiểu hình tầm thường đều có liên hệ đến
những tội đại hình kinh khiếp mà từ đó chúng bị dẫn
dắt đến, không thể nào tránh khỏi?) Dù gì đi nữa,
tôi đã băng qua đường vạch trên cát; cái đường vạch
đã luôn ở đó suốt cả đời tôi.
Tôi
luôn luôn thực hiện một quy tắc khi du hành: không chạm
vào những người lạ. Nhưng tại Việt Nam, những con
người lạ mặt lại luôn đụng chạm vào tôi mà không
làm cho tôi cảm thấy mình bị nguy hiểm. Ngược lại, sự
đụng chạm của họ làm tôi cảm động và hạnh phúc,
bởi lẽ tôi đã nhìn thấy sự đụng chạm ấy như một
cách diễn tả lòng từ tâm và sự nhân hậu cao thượng.
Việt Nam là đất nước duy nhất trên những chặng du
hành của mình mà ở đó tôi không bao giờ cảm thấy cô
đơn. Với từng cái đụng chạm, một lớp vỏ hành khác
lại bong ra và tôi đi dần đến chỗ đầu hàng, điều
này nằm ngay trong sự chấp nhận chính cái bản chất vô
danh của mình. Chẳng sao cả việc họ đụng chạm vào
tôi. Tôi chào đón điều đó nơi họ, bởi lẽ tôi tin
tưởng họ, hay đúng hơn lòng tin của tôi lớn dần lên
từ những đụng chạm ấy. Có một người đàn bà tại
một ngôi làng nhỏ ở vùng Tây Bắc của đất nước
này, một đêm nọ khi tôi đến khách sạn muộn, người
phụ nữ đó đã đến bên và đưa cánh tay vòng ngang lưng
tôi, vỗ nhẹ vào cánh tay tôi như để giúp tôi an lòng.
Tôi không bao giờ gặp lại bà. Tôi không rõ tại sao bà
lại cho tôi sự thân mật gần gũi ấy, nhưng tôi biết
ơn bà vì bà đã làm thế. Có một cô gái trẻ hay quanh
quẩn tại quán ăn ở Huế nơi tôi thường đến ăn. Cô
gái luôn luôn đến bàn của tôi và đứng lại một lúc
chuyện trò với tôi bằng tiếng Anh. Rồi một hôm cô cúi
xuống và hôn lên má tôi. Cô đang tập sự phô bày cái
nữ tính của mình qua tôi và tôi ý thức được là mình
được một người nữ hôn, cho dù đôi môi ấy là đôi
môi của một đứa trẻ. Tôi cảm nhận một sự khao khát
kỳ lạ người nữ đang trổ nụ ấy, một sự mong muốn
không hẳn mang nét tình dục, nhưng nó vẫn là thế; như
sự khát khao một hình ảnh hay một điều gì đó không
thấy được, khát khao người đàn bà mà cô gái chưa trở
thành, nhưng cô đã cho tôi, dù thoáng qua, cái hạnh phúc
được nếm trải nó. Đối với cô, cũng thế, tôi biết
ơn cô.
Tất
cả những chuyện đó, phần nào, gắn bó với điều đã
xảy ra tại Mỹ Sơn: một tội ác nhỏ của tôi. Chuyện
ấy cũng gắn bó với sự khát khao một điều gì đó
không thể sờ chạm vào được, một ham muốn sở hữu
và bị sở hữu, bị ngoạm nuốt bởi một cái gì đó to
lớn; một giấc mơ về sự vĩnh hằng ở giữa những
điều không vĩnh hằng.
Mỹ
Sơn—các tượng
nữ thần và hoa văn trên đá
Mỹ
Sơn cách Đà Nẵng khoảng 60 cây số. Trong lịch sử, xưa
kia nó đối với người Chàm cũng giống như là Angkor đối
với người Khờ-Me vậy: một trung tâm tinh thần và tôn
giáo, và, trên hết, một thành tựu về mặt kiến trúc.
Trong hơn một ngàn năm, con người đã sống tại thành
phố này, và rồi, theo một cung cách mang đặc nét Á
châu, nó đã bị bỏ hoang, và cái mà chúng ta gọi lầm
là thời gian có thể là đã khởi động công việc tàn
phá nó. Không phải thời gian đã phá đổ những ngôi đền
ấy, nhưng chính là những đội quân cướp bóc đã dày
xéo thành phố đền đài này; có rất ít nơi trên cái
đất nước dài, hẹp và bị chiến tranh tàn phá này
thoát khỏi những bàn chân dày xéo. Những kẻ cuối cùng
đã dẫm đạp trên đất nước này là những người Mỹ,
những người đã phá tan thành bình địa những công
trình được xây cất cả nghìn năm chỉ vì vùng đất
ấy, một thung lũng được bảo vệ kỹ lưỡng bởi những
ngọn đồi cây cối chằng chịt như rừng, đã là căn cứ
địa của Việt Cộng. Sau sự tàn phá một trong những
nơi có những ngôi đền đẹp đẽ nhất, Philippe Stern,
một chuyên gia về nền văn minh Chàm và là người phụ
trách trưởng của Bảo tàng viện Guinnet ở Paris, đã
viết trong một lá thư ngỏ gửi Tổng thống Nixon, trong
đó ông van xin tổng thống ngưng rải bom tàn phá những
công trình này. Nixon đã hứa là … sẽ để yên những
công trình đó và sẽ chỉ tập trung vào việc giết Việt
Cộng. (1)
Thời
gian phải tìm những cách khác để làm công việc của
nó.
Đó
là lúc mà tôi đến đây.
Khoảng
năm hay sáu cây số ở bên ngoài khu vực Mỹ Sơn, con
đường dần dần dẫn vào ngõ cụt. Một vài cái quầy
được dựng lên ở đây, và có một người cảnh sát
ngồi dưới gầm bàn trong bóng râm của một tấm bạt
căng. Ông ta hỏi xem sổ thông hành của tôi và viết con
số trong hộ chiếu xuống. Rồi có một thanh niên khẳng
khiu, đội mũ an toàn mầu vàng, xuất hiện và đề nghị
chở tôi qua đoạn đường vài cây số cuối trên chiếc
xe máy của anh ta.
Những
con dốc mầu xanh cây lá lung linh rập rờn mầu nước
biển trong lớp mỏng như sương mù của hơi nóng, nhưng
chẳng còn mấy thứ để xem tại Mỹ Sơn. Thỉnh thoảng
có một cột đền bằng gạch đỏ mầu han gỉ, nhưng hầu
hết chỉ là chuyện lái luồn lách quanh những hố bom và
những công trình đổ nát. Những đống đá vương vãi và
những bức tường đá dài nhiều bộ nằm đây đó khắp
nơi. Những thân cây bị phạt ngang nhô ra khỏi một ngôi
đền nhỏ, nửa phần đã đổ nát. Một ngôi nhà, đầy
đủ lệ bộ với mái che gợn sóng bằng sắt và lưới
bảo vệ chắn ngang cửa vào, được dùng như một nhà
kho để chứa các tượng và những mẩu của các đồ
trang trí trước đây đã được dùng để tô điểm cho
các ngôi đền. Một tấm biển yết thị ghi rõ rằng công
việc lưu giữ được công ty Mercedes của Đức bảo hộ
qua khẩu hiệu “Lưu Giữ Quá Khứ Cho Tương Lai”.
Những
quả bom phần nào đã làm công việc của chúng, nhưng sự
thật hiển nhiên là Mỹ Sơn, không giống như Angkor, chưa
bao giờ là trung tâm của một đế quốc lớn. Không gian
mang một vẻ tĩnh lặng đến nỗi người ta có cảm tưởng
là thành phố này đã được sinh ra từ sự tĩnh lặng
ấy.
Tôi
là người khách độc nhất của thung lũng. Điều này có
thể là lý do khiến chuyện ấy đã xảy ra. Hai người
lính gác với súng để trên đầu gối ngồi ở cửa vào
của thành phố đền. Khi tôi quay trở về sau khi đã đi
một vòng xem xét thành phố, họ vẫy tôi lại và đưa ra
một thứ được gói trong một tờ giấy báo. Tôi thoáng
nhìn thấy mầu sa thạch đỏ. Họ ra vẻ mời mọc, cười
cười với nét dụ dỗ một cách gián tiếp, cung cách
thân mật khá sỗ sàng. Một kỷ vật nhỏ? Họ cười ra
vẻ cầu tài.
Phản
ứng của tôi là sự tức giận. Tôi cảm thấy như họ
đã nắm được tôi và ngầm cho thấy là họ có thể
nhìn xuyên thấu qua tôi và biết rõ những bí mật của
tôi. Nhưng tôi không hề muốn dính líu gì với sự thân
mật vô đạo đức của họ. Tôi không phải một người
trong bọn họ. Tôi cảm thấy kinh tởm và muốn tránh xa.
Đây là những công bộc thối nát, hư hỏng, bán đi những
bảo vật mà họ được trao cho bổn phận phải giữ gìn.
Giản dị là họ đã tiếp tay cho sự tàn phá mà những
người Mỹ điên cuồng vì chiến tranh đã khởi động,
cũng với một sự coi thường như vậy đối với quá khứ
và lịch sử. Đất nước buồn bã này, tôi nghĩ, vốn
liếng đã quá ít ỏi mà lại còn không giữ lại được
một chút di tích của quá khứ để lại sau khi bom đạn
đã làm xong công việc của nó.
Thánh
địa
Mỹ Sơn, Việt Nam
Sau
sự từ chối của tôi, những tên lính gác cửa thay đổi
chiến thuật. Chúng thay đổi cung cách cầu cạnh của
mình bằng thái độ thẳng thắn một cách thoải mái.
Uống nước trà nhé? Trời nóng, và tôi đã đi bộ quanh
vùng dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt hàng mấy giờ
liền; bởi thế, tôi chấp nhận ly nước họ mời. Họ
kéo một chiếc ghế đẩu nơi một cái bàn nhỏ mời tôi
ngồi. Chúng tôi ngồi đó một lúc. Họ hỏi những câu
hỏi thông thường. Tôi bị nỗi thèm khát giao tiếp chộp
lấy và quên đi sự giận dữ của mình. Bỗng bất ngờ
một người trong bọn họ đặt cái gói giấy trên bàn
trước mặt tôi. Tôi ngó xuống đất, nhưng tới lúc ấy
thì mọi chuyện đã quá trễ. Trong một chớp mắt tôi
học được một điều: cái đẹp là kẻ đồng loã chính
của sự suy đồi.
Nằm
trên đó, ngay trước mặt tôi, là cái đầu của một
tượng Phật. Nó làm bằng sa thạch đỏ và những dấu
đục chạm đã từng nét hình thành nên khuôn mặt Phật
từ tảng đá gốc vẫn còn có thể nhận diện được,
giống như những lỗ chân lông trên da, nơi cát đã kết
tập qua bao thế kỷ. Những vành tai dài và những lọn
tóc xoăn đầy nét hoa mỹ uốn cong thành hình dáng một
ngôi chùa. Đường cong đầy đặn của môi trên uốn lên
thành một nụ cười thoảng và những bờ mi, nhắm hờ
trên những khe hở thoai thoải và hẹp của mắt, làm cho
khuôn mặt mang một vẻ cao nhã về mặt tinh thần.
Tôi
cầm bức tượng lên và trở nên nghiêm trang. Nó nằm gọn
trong lòng bàn tay tôi, cùng lúc sở hữu một sức nặng
ẩn kín làm cho nó có vẻ như nặng gấp đôi trọng lượng
thực của nó. Đó là một khuôn mặt tuyệt mỹ, mang đầy
nét vĩnh cửu, và tôi thức nhận được rằng nó có thể
là của mình. Tôi có thể sống với nó bên cạnh mình
mỗi ngày cho đến hết cuộc đời tôi, chứng kiến mỗi
ngày cái nụ cười này, cái nụ cười mang chứa trong nó
một sự bí mật còn sâu thẳm hơn sự bí mật của Mona
Lisa. Đức Phật, “người đã quên lãng những điều mà
chúng ta kinh nghiệm và kinh nghiệm những điều mà chúng
ta không bao giờ vói tới”.
Niềm
khao khát được sở hữu bức tượng này rõ ràng là quá
sắc nhọn, vì nó là nỗi khát khao được sở hữu sự
vĩnh hằng và như thế bảo đảm cho tôi chống lại ngay
với sự chết, sự qua đi của chính mình. Tôi đang cầm
trong tay mình từ 40 đến 50 thế hệ, và, qua cái đầu
của bức tượng này, có vẻ như thế, tôi có thể sống
thêm khoảng từ 40 đến 50 thế hệ nữa. Nó có tất cả
sức mạnh hấp dẫn của một hòn đá quý, một miếng vỡ
của vũ trụ, đã đáp xuống, bất ngờ, vào ngay lòng bàn
tay tôi, làm dấu chứng cho một nơi chốn nằm bên ngoài
thời gian. Được giấu kín trong nó là một lời hứa
rạng rỡ, thế nhưng điều hiển nhiên với tôi là cái
làm cho Đức Phật nhìn ngắm và mỉm cười, cái nhìn
rộng lượng từ dưới đôi bờ mi nhắm hờ kia, không gì
khác hơn là cái vô thường rõ ràng và chắc chắn của
mọi sự vật. Nhưng khuôn mặt này quá đẹp đến nỗi
nó cũng mang lại tất cả sức mạnh lôi cuốn của chính
những cái thoáng qua, những cái vô thường ấy. Đến lúc
này thì tôi không thể chịu đựng được cái ý nghĩ là
sẽ chẳng còn bao giờ nhìn thấy lại nó nữa. Tôi muốn
ngừng thời gian lại.
Cái
gáy của đầu tượng Phật bị mất và cuống họng chỉ
là một nhát cắt dài. Chắc hẳn là nó đã được tháp
vào tường của một ngôi đền như là một phần của
một dải tường mang đường nét kiến trúc hoa văn trang
trí lớn hơn, và đã bị đục ra, giống như đầu của
những pho tượng mà tôi đã từng thấy ở Angkor. Những
hạt cát vụn mầu đỏ nằm trong đường cắt cuống
họng. Hẳn là cái đầu tượng này đã bị đục lấy ra
từ lâu rồi.
“Những
người Mỹ,” hai tên gác nói, chỉ vào cuống họng của
tượng.
“Thế
kỷ thứ mười,” họ nói tiếp, “Rẻ. $80.”
Giờ
thì họ dạn dĩ, tự tin hơn. Họ đã thấy cái yếu đuối
trong con người tôi.
“$60,”
tôi nói. Tôi không thật sự muốn nói như vậy. Điều
tôi muốn nói là: hãy cứu tôi khỏi phải mua bức tượng
đẹp đẽ này, vì tôi không thể chịu được cái cảnh
nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong một hành vi đốn
mạt như thế. Nhưng tôi không đủ sức để nói không.
Bởi thế tôi để cho sự may rủi quyết định. Nếu các
anh lùi bước, tôi sẽ mua đầu tượng Phật và rời khỏi
chốn này—một con người bị thay đổi, một con người
thấp kém hơn. Nhưng các anh không chịu. Bởi vì các anh
đúng. Nó quá rẻ. $80 chẳng là gì cho một mảnh của
vĩnh hằng. Và có lẽ lý do các anh bán nó quá rẻ chính
là vì các anh phải đi kiếm tìm những người khách cho
những món hàng đánh cắp khốn kiếp của mình tại một
nơi chốn hẻo lánh như thế này. Bởi vậy các anh sẽ
giữ vững lập trường của các anh, và tôi giữ vững
lập trường của tôi, và trong vòng một hay hai phút nữa
thôi tôi sẽ rời khỏi đây, bình an thanh thản và với
một lương tâm trong sạch.
“$80,”
họ lập lại. “Rẻ.”
“$60.”
Họ
lắc đầu. Tôi đứng lên, nhẹ nhõm, và chuẩn bị đi.
“$70.”
Trước
khi tôi có thể tự ngăn cản mình, tôi đã quay lại và
gật đầu, được rồi.
Họ
gói cái đầu của pho tượng vào trong tờ giấy báo trở
lại và đưa nó cho tôi. Tôi nghĩ đến người cảnh sát
đứng ở cuối đường. “Không sao đâu,” họ nói và
lắc đầu. Với bàn tay lành nghề, người đàn ông đội
mũ an toàn mầu vàng cầm lấy cái đầu pho tượng được
gói giấy báo và chuồi nó vào trong một trong những túi
áo quần rộng lớn của anh ta. Họ nháy mắt với tôi.
Tôi đã là một trong những con mồi của họ. Tôi đã bị
họ chụp bắt được.
Chúng
tôi chạy xe qua mặt người cảnh sát và, được cánh cửa
xe che chắn, tôi cầm lấy đầu pho tượng. Rồi tôi vù
đi, cảm nhận mình là một con người khác; không phải
là một người tốt hơn, nhưng là một vị quan toà đúng
đắn hơn đối với chính tính cách của con người mình.
Tôi đã được chữa, được điều trị khỏi cái lương
tâm trong sạch của mình. Tôi đã bước chân qua đường
biên, nhập cuộc với “chúng”, những kẻ nọ—những
kẻ ném bom, những kẻ cướp bóc, những kẻ mà trước
đây tôi đã luôn luôn nhìn ngắm từ góc độ an toàn của
phía bên kia, của một lương tâm trong sạch—và trở
thành một mắt xích nhỏ trong một chuỗi xích lớn của
sự tàn phá.
André
Malraux đã đục lấy toàn bộ những mảng kiến trúc lớn
của Bantey Srei (2),
còn tôi thì lấy một miếng nhỏ của Mỹ Sơn. Người
anh hùng của Malraux, Perken, mơ thấy để lại một vết
sẹo trên khuôn mặt của phong cảnh; những người Mỹ đã
hiện thực hoá giấc mơ ấy, trong cái mức độ toàn
triệt của thời đại kỹ nghệ, và để lại sau lưng họ
một mảnh đất lỗ chỗ dấu bom như một miếng phó-mát
Thuỵ Sĩ. Và khi đã có đủ thời gian trôi qua, người ta
sẽ nhắc đến những dấu vết của chiến tranh như những
sự tàn phá của thời gian, mà không còn nhìn thấy cái
bàn tay tàn bạo của con người hoặc không còn nghe thấy
tiếng dẫm đạp của những bước chân thù. Nhưng chính
cái đoạn đường khốn khó này đã tìm thấy một vọng
âm trong hành động mua bán nhỏ của tôi, và, một cách
nào đó, bây giờ tôi đã là một phần tử gắn bó thiết
thân hơn nữa với nhân loại: tôi đã vượt qua biên giới
để vào những vùng đất bị tàn phá và học biết được
rằng cái đẹp có cái giá của nó, và số tiền $70 mà
tôi đã trả để có được cái đẹp chỉ là một phần
rất nhỏ bé của cái giá kia.
Carsten
Jensen
Bùi
Vĩnh Phúc dịch
________________________________________
Chú
thích:
(*)
Đây là
một chương trong tập du
ký nhận định I
Have Seen The World Begin / Travels through China, Cambodia, and
Vietnam (New York: Harcourt, Inc. ,
2000.) của Carsten Jensen. Tác phẩm được Munksgaard /
Rosinante in lần đầu bằng tiếng Đan Mạch vào năm 1996
dưới tên gọi Jeg
har set verden begynde.
Barbara Haveland dịch từ nguyên tác Đan Mạch sang tiếng
Anh. Tác phẩm đã được giải Golden Laurels dành cho sách
hay nhất của năm.
(1)
Chính xác là "... to leave the buildings
alone and confine himself to killing Vietnamese". Ở đây,
"Vietnamese", có lẽ giống như cách nói của nhiều
người Pháp trong vùng Đông Dương trong thời chiến tranh:
“Vietnamese”, hay "tụi Việt", để chỉ "Việt
Cộng" (Có thể xem thêm Olivier Todd, Cruel
Avril 1975 / La Chute de Saigon,
Éditions Robert Laffont, S.A., Paris, 1987).
(2)
Bantey Srei
(còn được viết là Banteay
Srei hay Banteay
Srey, nghĩa là “thành trì của
phụ nữ”, hay “thành trì của cái đẹp”) là một
ngôi đền cổ, được xây dựng vào thế kỷ thứ 10, để
tôn vinh thần Shiva của người Hindu. Nằm trong quần thể
Angkor của Cambodia, nó được định vị ở gần ngọn đồi
Phnom Dei, 25 km (16 mi) đông bắc đối với quần thể chính
của những ngôi đền đã một thời thuộc về những thủ
đô Yasodharapura và Angkor Thom thời trung cổ. Bantey Srei
được xây cất phần lớn bằng sa thạch đỏ, một chất
liệu giúp người ta dễ đục chạm những hoa văn tỉ mỉ
và tinh tế giống như khắc chạm trên gỗ. Những nét
chạm khắc tinh tế, tỉ mỉ đó trên những bờ tường
của ngôi đền, hiện nay, vẫn còn có thể được nhận
rõ. Kiến trúc này rất nhỏ bé so với sự vĩ đại chung
của quần thể kiến trúc Angkor. Bantey Srei được giới
khảo cổ cũng như du khách thế giới nói chung đánh giá
là một “viên ngọc quý” của nghệ thuật Khmer. Nó chỉ
được tái khám phá vào năm 1914, gắn với một vụ trộm
nghệ thuật đình đám, khi André Malraux đục lấy bốn
pho tượng trong nhiều tượng nữ thần (devatas) được
chạm khắc trên những bờ tường của ngôi đền. Dù
sao, André Malraux bị bắt không lâu sau đó, và bốn pho
tượng thần này đã được hoàn trả lại.