Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

Việt-Long - Biển Đông đầy biến động


Việt-Long, RFA


Nói biển Đông lại nổi sóng e không còn đúng nữa, vì trên thực tế đó đã là vùng biền động thường xuyên trên khía cạnh chính trị. Biến động mới nhất là Việt Nam phản đối Trung Quốc gọi thầu khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên biển Đông.


Vùng biển Thái Bình không yên bình - Illustrated Wikipedia map 

Không coi luật biển Việt Nam ra gì

Trung Quốc bác bỏ, nói sự phản đối đó vô hiệu. Trước lúc sự kiện này xảy tới, Trung Quốc đã phản đối Luật biển của Việt Nam vừa được quốc hội thông qua.  Tại sao Trung Quốc gọi thầu vào lúc này?

Đó là những lô dầu khí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam, trùng lên những lô từ 128 đến 132, và trùng từ lô 145 đến lô 156. Từ giới hạn đó vào Quảng Ngãi chỉ cách 76 hải lý, cách khu gần nhất ở Nha Trang là 60 hải lý.  Điểm gần nhất giữa Nha Trang và Phan Thiết có 57 hải lý và cách đảo Phú Quý 30 hải lý, theo như Tổng Giám Đốc PetroVietnam tuyên bố.

Việt Nam mạnh mẽ phản đối và kêu gọi các công ty ngoại quốc đừng tham gia đấu thầu, vì khu vực này đã được thăm dò và khai thác từ nhiều năm nay do PetroVietnam cùng các đối tác ngoại quốc là các Tập đoàn dầu khí gồm ONGC VIDESH của Ấn Độ, GAZPROM của Nga, và Exxon Mobil của Hoa Kỳ.
Trung Quốc gọi thầu có thể để trả đũa việc mà Trung Quốc đã phản đối là Luật Biển của Việt Nam được quốc hội thông qua hồi tuần trước. Trung Quốc muốn chứng tỏ Luật Biển của Việt Nam vô hiệu, Bắc Kinh không coi ra gì.

Tái khẳng định “Lưỡi Bò”

Có ý kiến khác hơn thế, cho rằng bằng cách gọi thầu như vậy, Trung Quốc vừa trả đũa vừa tái xác định chủ quyền lãnh hải theo đường Lưỡi Bò mà họ áp đặt.  CNOOC, tức Tập đoàn dầu khí hải dương quốc gia Trung Quốc, nói là 7 lô trong số 9 lô này nằm trong vùng trũng mà họ gọi Trung Kiến Nam và 2 lô nằm trong một phần của các vùng trũng Vạn An và Nam Vĩ Tây, cũng do Trung Quốc đặt tên.

Tuy nhiên đây cũng không phải là điều bất ngờ, mà Việt Nam có thể đã dự đoán trước sau gì Trung Quốc cũng làm như vậy, từ khi Bắc Kinh phản đối New Delhi về dự án hợp tác với Việt Nam ở hai lô 127, 128 mà sau cùng Ấn Độ đã bỏ.

Ấn Độ quả đã rời đi và phải trả cho PetroVietnam 15 triệu đô la đền lại hợp đồng, nhưng New Delhi tuyên bố rằng công ty Ấn Độ đã rời bỏ hoàn toàn vì lý do kỹ thuật.

Việc mời thầu của Trung Quốc ở 9 lô trùng lên hải phận đặc quyền kinh tế của Việt Nam sẽ có triền vọng ra sao?


Ai vội bỏ thầu!

Có hy vọng là các công ty ngoại quốc sẽ tiếp tục khai thác, thăm dò ở những nơi đã có  hợp đồng, nhưng sẽ phải do dự, chần chừ, để chờ xem diễn tiến cuộc tranh chấp lãnh hải ra sao ở những nơi chưa ký hợp đồng, và cũng chờ xem thái độ của Hoa Kỳ , Nhật Bản, Ấn Độ như thế nào.

Là những công ty quốc tế già đời, họ chưa vội lao ngay vào chỉ vì mối lợi dầu khí.

Thứ nhất, nhiều công ty quốc tế chủ trương không làm ăn ở những nơi có tranh chấp. Và thứ nhì là nguồn dầu khí để thăm dò và khai thác không hề thiếu đối với họ.

Thêm vào đó các công ty phương Tây làm ăn còn có đạo đức chính trị, một phần nữa cũng có sự tham vấn với chính phủ của họ, mà người ta tin rằng những chính phủ này không bênh vực Trung Quốc.

 Hoa Kỳ  và Nga từng tuyên bố họ có toàn quyền hợp tác kinh tế tại biển Đông, trong lãnh hải hợp pháp của các quốc gia liên quan. Các công ty đó sẽ quyết định hợp tác ở phần nào, với nước nào trong khu vực.
Ngoài ra, khu vực bị Trung Quốc gọi thầu đã có sẵn những phần diện tích mà các công ty Ấn Độ, Nga và Mỹ đã ký hợp đồng thăm dò - khai thác với Việt Nam. Total với BP chẳng lẽ tranh giành những lô dầu sát cạnh hay trùng hợp với GazProm, Exxon Mobil và ONGC?

Quyền tự do lưu thông

Trong những công ty quốc tế đó có Exxon Mobil của Mỹ. Hoa Kỳ không phê chuẩn Công ước Luật biển, Exxon Mobile có thể phán định phần nào thuộc về nước nào không?

Tuy không phê chuẩn Công Ước Luật biển nhưng Hoa Kỳ vẫn tôn trọng quan điểm của các quốc gia đối tác về lãnh hải và thềm lục địa. Song song với sự tôn trọng đó, Hoa Kỳ cũng giành quyền sử dụng hành lang đường biển dọc bờ biển mọi quốc gia trên khắp thế giới, trong những điều kiện không vi phạm luật biển quốc tế.

Ở biển Đông người ta thấy có lần Trung Quốc đã gây sự với máy bay thám sát của Hoa Kỳ hoạt động ở phía Nam đảo Hải Nam, chính vì Mỹ giành lấy quyền tự do lưu thông đó.

Biển Đông là hải lộ sinh tử của Trung Quốc cũng như của Nhật Bản và Hàn quốc ở Đông bắc Á.

Nhật, Hàn là hai đồng minh chí cốt,  hai cái chân đứng vững chắc của Hoa Kỳ ở Đông Á. Một phần lớn là vì yếu tố đó mà Mỹ thường nói hành lang thuỷ lộ biển Đông liên quan đến quyền lợi thiết yếu của họ .
Lưỡng đầu thọ địch?

Trong khi đó thì Philippines cùng Trung Quốc rút tàu ra khỏi Scarborough, và Manila lại khánh thành nhà trẻ trên đảo Thị Tứ mà họ đặt tên là Paga-sa. Phải chăng Việt Nam rơi vào thế “lưỡng đầu thọ địch”?

Thực ra Manila chẳng qua chỉ gỡ thể diện với người dân của họ trong lúc diễn ra cuộc đối đầu ở Scarborough, nơi mà hai bên bảo nhau kéo tàu ra khỏi vùng bãi cạn.

Thế “lưỡng đầu thọ địch”, có thể hình dung như uốn mình theo chữ S để tay với nắm Hoàng Sa, chân với giữ Trường Sa, thì Việt Nam đã phải gánh chịu từ khi Trung Quốc tấn công biên giới năm 1979 rồi công khai trở mặt áp bức trên biển Đông, chẳng phải chỉ vì mấy cái nhà trẻ của Philippines.

Đảo Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì ở Trường Sa. Lớn nhất ở Trường Sa là đảo Ba Bình, cũng là tên của Việt Nam đặt, nhưng đã do Đài Loan chiếm đóng.  Đảo Thị Tứ trên bản đồ thế giới vẫn mang tên là Thitu Island, vì các nhà địa lý, hải hành quốc tế không biết viết dấu chữ Việt, chứng tỏ Việt Nam đã công bố chủ quyền nơi đó từ lâu.

Nhưng chủ quyền ở Trường Sa nói chung, thì trên thực tế Việt Nam chỉ giữ được những đảo, đá, bãi hiện đang chiếm giữ chứ không thể nào giữ được tất cả, vì nó quá xa Bà Rịa- Vũng Tàu,  trong khi Palawan của Philippines ở gần nó hơn.

Việt Nam ban hành Luật biển xác định chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa để rộng đường ăn nói trên trường quốc tế và đề cao tinh thần tuân thủ Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc. Nhưng Trung Quốc cứ gọi đó là sự vi phạm Bản Tuyên bố về Ứng xử và vi phạm các hiệp ước song phương về lãnh thổ, lãnh hải.
Thực ra, về lãnh hải, hai bên chỉ ký Hiệp ước phân định vịnh Bắc bộ, theo đó Việt Nam vì nguyên tắc quốc tế về đường trung tuyến giữa hai lãnh hải, đã phải nhường cho Trung Quốc một số diện tích kha khá. Lãnh hải biển Đông nơi có các lô dầu khí không nằm trong hiệp ước này.

Bản tuyên bố về Ứng xử thì chính Trung Quốc đã vi phạm trước cả Philippines lẫn Việt Nam bằng những hành vi gây căng thẳng như diễu tàu Ngư Chính, đánh cá ở sát bờ Philippines, bắt giữ trấn lột tàu cá Việt Nam, gọi thầu ở vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam… nhưng vẫn lu loa lên án, vu ngược cho láng giềng “16 chữ vàng”!

Dù sao chăng nữa…

Việt Nam còn có lợi thế được phương Tây ủng hộ. Trong khi Hoa Kỳ kiên quyết đặt chân đứng ở châu Á, Bộ trưởng quốc phòng Leon Panetta chẳng phải ngẫu nhiên đến thăm tàu Mỹ và đặt nhẹ bàn chân lên bãi cát trắng Cam Ranh, thì Trung Quốc khó lòng lấn chiếm vào hải phận miền Trung bằng kinh tế cũng như bằng vũ lực.

Nhưng dù sao chăng nữa, nai lưng gánh vác lấy nhiệm vụ của chính mình, Việt Nam phải thật cương quyết chống lấn chiếm và xâm thực cả trên biển lẫn trên đất, cả chính trị lẫn kinh tế, thì mới mong giữ được nước.


Ngô Nhân Dụng - Một lá phiếu cứu Obamacare

Ngô Nhân Dụng



Người Mỹ chờ đợi phán quyết của Tối Cao Pháp Viện về Luật Cải tổ Y tế của Tổng thống Barack Obama cũng hồi hộp không khác gì người coi trận chung kết giải Euro 12. Hồi hộp tới phút chót; năm phút chót. Theo tin trong giới cá độ (InTrade) thì có 70% người ta tin là các Thẩm phán sẽ bác bỏ đạo luật vì nó vi hiến. Đơn thưa kiện của 26 tiểu bang nói rằng đạo luật Obama bắt buộc mọi người dân Mỹ phải mua bảo hiểm y tế (nếu không sẽ bị phạt tiền) là vi hiến. Phía chính quyền biện hộ rằng điều này nằm trong quyền của Quốc hội dựa theo Điều khoản Thương mại trong hiến pháp Mỹ; nó cho phép Quốc hội liên bang làm luật điều hành việc thương mại liên tiểu bang.

Trong phần đầu bản văn dài 59 trang được công bố Chủ tịch John Roberts đã nêu ý kiến nói rằng việc bắt buộc trên “không thể coi là phù hợp với Điều khoản Thương mại.” Những người chống đạo cười luật hân hoan. Phải năm phút sau Thẩm phán Roberts mới nêu ra ý kiến khác, nói rằng Quốc hội có quyền đánh thuế những người không mua bảo hiểm y tế; mà thứ tiền mà trong đạo luật gọi là tiền phạt chính là một thứ thuế, nằm trong thẩm quyền của Quốc hội! Những người ủng hộ đạo luật lúc đó mới bật lên mừng rỡ!

Có lẽ trong năm phút mong manh đó, các đài CNN và Fox News đã cố giành cái vinh dự loan tin sớm nhất. Họ cho tin lên đài: “Tối Cao Pháp Viện bác bỏ luật bắt cá nhân mua bảo hiểm y tế vì vi hiến!”

Từ hai năm nay cả hai bên, phe chống lẫn phe bênh đạo luật, không ai dùng đến lý luận về thuế má cả. Hồi Tháng Ba, mục Bình Luận này đã đặt câu hỏi tại sao hai năm trước Tổng thống Obama không mô tả việc đóng tiền phạt này là một thứ thuế, để tránh cho đạo luật khỏi bị kiện là vi hiến. Không ngờ chính Thẩm phán Roberts đã dùng lối giải thích này để giữ lại đạo luật.

Những người theo khuynh hướng bảo thủ ở Mỹ thường không muốn cho chính quyền liên bang nới rộng thêm quyền hành, lấn áp các tiểu bang hoặc xâm phạm vào quyền quyết định của các cá nhân. Bốn vị Thẩm phán bảo thủ (Kennedy, Scalia, Thomas và Alito), do các vị tổng thống Cộng Hòa đề cử, đều nói Điều khoản Thương mại không cho phép Quốc hội liên bang nhiều quyền như trong đạo luật Obamacare. Bốn vị có khuynh hướng cấp tiến (Ginsburg, Sonia Sotomayor, Stephen G. Breyer và Elena Kagan) nghĩ ngược lại. Cả hai bên đều dựa trên Điều khoản Thương mại; đưa ra những bản ý kiến riêng bổ túc cho phán quyết. Chánh thẩm John Roberts đồng ý là Điều khoản Thương mại không cho phép Quốc hội bắt dân mua bảo hiểm. Ông đã bỏ lá phiếu quyết định giữ đạo luật, nhưng dùng lý luận dựa trên quyền đánh thuế của Quốc hội Mỹ.
Ông John Roberts được cựu Tổng thống Gorges W. Bush (Cộng Hòa) đề cử làm Chánh thẩm Tối Cao Pháp Viện. Ông đã cứu một công trình lập pháp quan trọng nhất của đảng Dân Chủ trong vòng nửa thế kỷ nay; trong lúc toàn thể đảng Cộng Hòa chống lại đạo luật đó.

Bài học thứ nhất là khi các vị thẩm phán có vai trò độc lập thì quyền của họ rất lớn. Các thẩm phán cấp liên bang ở Mỹ đều được bổ nhiệm suốt đời (các thẩm phán cấp dưới thì do dân bỏ phiếu định kỳ). Đó là một cách bảo vệ tính độc lập của các thẩm phán; khiến họ không phải chiều theo ý kiến của đảng phái chính trị.
Tính độc lập của các thẩm phán đã bị nhiều người Mỹ nghi ngờ, vì khi các ông tổng thống đề cử ai thì cũng chọn những người cùng quan điểm với mình về các nguyên tắc pháp luật. Năm 2000, phán quyết 5 – 4 của Tối Cao Pháp Viện Mỹ chỉ kết luận là cuộc kiểm phiếu ở Florida là hợp pháp, có thể kết thúc. Nhưng lá phiếu thứ 5 trong phán quyết đó đã đưa tới hậu quả, là Tổng thống Gorges W. Bush đắc cử.

Lá phiếu thứ 5 của Chánh thẩm Roberts vừa rồi khiến người Mỹ thấy rõ tính độc lập của quyền tư pháp. Trước đây, các đơn kiện đạo luật Obamacare ở tòa án cấp dưới cũng đưa tới những kết quả bất ngờ. Ở cấp tòa địa hạt, các vị thẩm phán gốc Dân Chủ thường phán là đạo luật chỉ áp dụng Điều khoản Thương mại; trong khi các thẩm phán gốc Cộng Hòa thì thấy đạo luật vượt quá quyền hạn của điều khoản đó. Khi lên đến cấp tòa phá án, thì ngược lại, chính vị thẩm phán được ông tổng thống đảng Dân Chủ đề cử lại bác bỏ đạo luật này, còn một vị thẩm phán Cộng Hòa thì lại phán là nó đúng luật.

Cho nên có thể rút ra một bài học khác, là việc giải thích luật pháp và hiến pháp không giản dị, rất khó đoán. Trước khi toà án tối cao xét xử, nhiều luật gia đoán rằng Thẩm phán Kennedy sẽ ủng hộ Obamacare, vì trong quá khứ ông đã nhiều lần bỏ phiếu cho chính quyền liên bang thêm quyền hành dựa theo Điều khoản Thương mại. 


Ông Kennedy lại là người viết bản ý kiến dị biệt của các thẩm phán không đồng ý với phán quyết, với những lời lẽ rất cứng rắn và sắc bén. Nhưng Chánh thẩm Roberts đưa ra lý luận sắc bén nhất về vấn đề áp dụng Điều khoản Thương mại. Theo ông hiến pháp cho phép Quốc hội điều tiết các hoạt động mua bán liên bang, nhưng không có nghĩa là họ cũng có quyền trên những người không mua gì cả. “Nhân danh Điều khoản Thương mại để giữ lại đạo luật Y tế này tức là cho Quốc hội quyền viết luật trên những gì người dân không làm. Các nhà Lập hiến (nước Mỹ vào thế kỷ 18) biết phân biệt giữa hoạt động và không hoạt động gì cả. Họ cho Quốc hội quyền quy định về hoạt động thương mại, chứ không cho quyền bắt người dân phải dự vào các hoạt động thương mại. 


 Năm 2005, khi điều trần trước Thượng viện Mỹ để được phê chuẩn làm Chánh án Tối Cao Pháp Viện, ông Roberts đã ví: “Nhà thẩm phán cũng giống các trọng tài. Trọng tài không làm ra các luật giao đấu, họ chỉ áp dụng. Vai trò của một trọng tài, cũng như một thẩm phán là bảo đảm mọi người giao đấu theo đúng luật; một vai trò rất giới hạn. Không ai đến sân banh để xem ông trọng tài cả.” Nhưng trong trận đá bóng Luật Cải tổ Y tế vừa qua, Trọng tài John Roberts đã biểu diễn rất ngoạn mục. Một mặt, ông bác bỏ ý kiến của chính quyền Obama, nói đạo luật theo đúng Điều khoản Thương mại. Một mặt ông giữ nguyên đạo luật đó, dựa trên một lý luận mà chính quyền không nghĩ đến để dùng khi tự vệ: Quyền đánh thuế. Cuối cùng, có thể nói ông Roberts đã đá trái banh Cải tổ Y tế sang một sân chơi khác, cho các nhà chính trị hai đảng đấu với nhau trong năm tháng tới, bằng cuộc vận động tranh cử. Ứng cử viên Mitt Romney đã kêu gọi những người chống đạo luật hãy bầu cho ông làm tổng thống, ông hứa sẽ xin cho Quốc hội bãi bỏ đạo luật ngay khi nhậm chức. Đảng Cộng Hòa có thể dùng vấn đề này như một đề tài tranh cử Tổng thống và Quốc hội. Một cuộc nghiên cứu dư luận gần đây cho thấy chỉ có 24% dân Mỹ nghĩ là Tối Cao Pháp Viện nên giữ lại đạo luật; 27% nghĩ là nên xóa bỏ điều khoản bắt buộc mua bảo hiểm; và 41% cho là nên xóa tất cả đi. Sau khi Tòa Tối Cao công bố phán quyết, trong một giờ đảng Cộng Hòa đã nhận được 200,000 đô la tiền ủng hộ tranh cử. Trong vòng 24 giờ, Thống đốc Romney đã được 43,000 người ủng hộ qua internet đóng góp cho ông 4.3 triệu đô la để giành lấy ngôi vị Tổng thống! 


 Nhưng ông Romney cũng báo trước những người ủng hộ ông là không nên dồn hết sức vào việc tấn công đạo luật Cải tổ Y tế. Trong dư luận cử tri Mỹ, khi hỏi vấn đề nào là mối quan tâm lớn nhất, chỉ có 5% nói về đạo luật Cải tổ Y tế. Còn 50% các cử tri coi những vấn đề kinh tế, như công việc làm mới là quan trọng nhất.

Lá phiếu của Chánh thẩm John Roberts sẽ thay đổi đời sống của hàng chục triệu người dân Mỹ, hoặc nhiều hơn. Có tờ báo kể câu chuyện anh Eric Richter ở Ohio. Hai vợ chồng anh đi làm, lợi tức góp lại được 36,000 đô la một năm. Lợi tức đó khá cao, anh không được hưởng Medicaid; nhưng mua bảo hiểm y tế thì tốn kém nên anh quyết định không mua vì ở tuổi 39 không mấy khi bệnh tật. Tháng Tư vừa qua bác sĩ phòng cấp cứu cho biết anh phải mổ một cái bứu nguy hiểm. Vợ anh đi tìm mua bảo hiểm, không nơi nào bán vì anh đã có bệnh rồi. Bà vợ phải quyết định bỏ việc làm, để lợi tức xuống thấp, đủ điều kiện được hưởng Medicaid.

Phán quyết của Tối Cao Pháp Viện cho tiếp tục thi hành luật Obamacare. Điều khoản “Bắt buộc bảo hiểm” sẽ được áp dụng vào năm 2014. Sẽ có thêm trên 30 triệu người Mỹ được bảo hiểm y tế. Ai cũng phải mua bảo hiểm, nếu thiếu tiền sẽ được chính phủ trợ cấp. Người nào không mua sẽ phải đóng tiền phạt, bằng 1% lợi tức, đến năm 2016 sẽ tăng lên tới 2.5%. Các công ty bảo hiểm không được phép giới hạn số tiền chi cho mỗi bệnh nhân trong một đời. Những người đang bị bệnh cũng vẫn mua được bảo hiểm, các công ty không được từ chối. Eric Richters sẽ mua được bảo hiểm dù đang bị bệnh. Gia đình anh, với lợi tức $36,000 sẽ phải đóng khoảng 200 đô la bảo hiểm mỗi tháng. Từ năm 2015, các bác sĩ sẽ được trả thù lao dựa trên kết quả việc trị liệu bệnh nhân, thay vì được trả công từng hành động chẩn đoán hoặc chữa trị.

Người dân Mỹ bình thường sẽ không lo bị mất bảo hiểm y tế khi kinh tế suy yếu, hãng xưởng đóng cửa, bị mất việc làm. Không ai lo khi bị tai nạn, hay bất ngờ bị bệnh như Eric Richters, có thể sạt nghiệp vì chi phí chữa trị, hoặc phải tự giảm bớt lợi tức và tài sản để được hưởng Medicaid. Tòa án Tối cao đã bác bỏ một phần điều khoản về Medicaid (Medical ở California), không cho phép chính phủ liên bang “phạt” các tiểu bang bằng cách rút bớt tiền góp vào quỹ này. Nhưng chương trình Medicaid sẽ được mở rộng thêm trên toàn quốc. Điều kiện dễ dàng hơn sẽ giúp khoảng 5 triệu người Mỹ nghèo hoặc quá tật bệnh nhận được Medicaid. Các thống đốc tiểu bang có quyền thi hành điều khoản này theo tốc độ nhanh hay chậm. Dân chúng các tiểu bang sẽ quyết định họ muốn luật được thi hành nhanh hay chậm qua lá phiếu. Cũng như dân Mỹ sẽ bỏ phiếu vào tháng 11 tới; khi bầu cho Romney hay Obama, họ sẽ quyết định cả đạo luật Cải tổ Y tế có nên giữ hay không.

Trước khi Tòa Tối Cao công bố phán quyết, Tổng thống Barack Obama có lúc than phiền rằng những người không được dân bầu (các thẩm phán) có quyền bác bỏ một đạo luật do các vị dân cử (tổng thống và quốc hội) làm ra! Ông Obama từng làm giáo sư về Luật hiến pháp; lời tuyên bố trên khiến nhiều người kinh ngạc. Nếu hiến pháp nước Mỹ ấn định như vậy, tại sao một ông Tổng thống còn thắc mắc? Nay thì nhờ Thẩm phán Roberts, Tổng thống Obama không còn thắc mắc nữa! Chính trị là chuyện nhất thời. Quy tắc tam quyền phân lập có giá trị lâu dài hơn, nếu không nói là vĩnh viễn!

Nguyễn Hưng Quốc - Cái hèn và cái khổ của giới cầm bút Việt Nam


Nguyễn Hưng Quốc



Tôi mới đọc bài viết “Sự hèn mạt của báo chí” trên blog của Trương Duy Nhất. Đọc xong, vừa thán phục vừa ngậm ngùi. Thán phục sự can đảm của tác giả và ngậm ngùi cho thân phận báo chí Việt Nam.

Trương Duy Nhất kể lại một câu nói của một cán bộ tuyên giáo nào đó trong một bữa nhậu mấy năm trước: “Báo chí các cậu hèn bỏ mẹ!” Rồi bình luận tiếp: “Tức. Một tay nó bóp d.., tay kia dán băng keo bịt miệng, thế mà vẫn lớn tiếng chê mình hèn. Định vung cho lão một đấm, nhưng nghĩ lại thấy lão nói đúng chứ đâu sai. Báo chí kiểu gì mà chỉ một cú điện thoại, một văn bản miệng đã răm rắp tự bịt miệng nhau.”

Và ông dẫn chứng: “Một cái lệnh miệng từ văn phòng Ủy ban Nhân dân huyện Văn Giang (Hưng Yên) cũng khiến tất cả hơn 700 tòa báo câm lặng, không dám cử phóng viên đến đưa tin. Khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) bị đánh đập, trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo, thẻ đảng, thẻ luật gia… nhưng không một tòa báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan chủ quản của họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh cũng không dám công khai lên tiếng.

“Phải đợi đúng nửa tháng sau, trước sức ép dữ dội từ dư luận và sự mắng chửi từ các trang mạng lề trái, VOV mới miễn cưỡng đăng vài mẩu tin lên tiếng bảo vệ phóng viên của mình. Nhưng được vài hôm rồi im bẵng đến nay. Không còn nghe bất cứ một tòa báo nào nhắc lại chuyện này nữa. Câu chửi “Đ.M mày! Nhà báo cũng đánh cho chết mẹ mày đi” trong vụ trấn áp Văn Giang vẫn văng vẳng mãi như một nỗi ô nhục của nghề báo.”

Trương Duy Nhất nêu lên nhận định của một số đồng nghiệp.

Ví dụ, nhà báo/blogger Phan Văn Tú: “Trong đầu thằng nhà báo Việt nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt nó trước khi bị người khác cắt”.  Hay, nhà báo Đào Tuấn, được giới thiệu là một “cây bút kỳ cựu của Đại Đoàn Kết, nay sang tờ Dân Việt”:  “Nhiều người cầm bút giờ còn bi kịch hơn khi hàng ngày phải viết những điều không giống với sự thật… hàng ngày, dù không tin, nhưng vẫn phải viết ra một điều không thật – một cách khéo léo đến dối trá, để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật.”

Cuối cùng, Trương Duy Nhất kết luận, đay đi nghiến lại nhiều lần, trong nhiều câu khác nhau, trong suốt nửa sau của bài viết:

“Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến vậy. […] Run sợ đến dối trá. […] Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục đến vậy. […] ở Việt Nam, nếu không mù chữ thì ai cũng có thể làm nhà báo được.”

Không phải chỉ có giới làm báo mới hèn. Các giới khác, từ giới làm văn, làm thơ đến giới làm âm nhạc cũng hèn. Nhạc sĩ Tô Hải tự nhận mình là “bồi bút”, là “hèn sĩ”, và, ở tuổi 80, viết nguyên cả một cuốn sách với nhan đề là Hồi ký của một thằng hèn.

Trước đó, năm 1988, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, trong bài “Cái hèn của người cầm bút” đăng trên tạp chí Sông Hương số 31, cũng nói nhiều về những cái hèn ấy. Ông so sánh giới cầm bút Việt Nam với một số người cầm bút ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam thuộc thế hệ trước, như Nam Cao, chẳng hạn, và rút ra nhận định: Nhà văn Việt Nam hèn không phải chỉ ở việc bẻ cong ngòi bút để phục vụ tuyên truyền mà còn ở chỗ không dám viết thật, dù chỉ viết cho mình đọc. Có điều kết luận của ông không hẳn dễ được nhiều người đồng ý: Người cầm bút Việt Nam hèn, nhưng cái hèn ấy chủ yếu “do chính người cầm bút tạo nên cho mình. Mình tự làm hèn mình!”

Nói đến cái hèn của người cầm bút Việt Nam, không thể không nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu trên báo Văn nghệ ở Hà Nội năm 1987, một bài viết được xem là tiêu biểu cho phong trào đổi mới văn học tại Việt Nam. Bài viết đặt ra nhiều vấn đề, trong đó, một trong những vấn đề được Nguyễn Minh Châu viết một cách tâm huyết và để lại nhiều ấn tượng nhất cho người đọc chính là vấn đề cái hèn. Có lúc ngỡ như ông vừa viết vừa nghẹn ngào. Giọng văn đầy cảm xúc:

“Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”, nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. […] Sao mà khổ vậy?”

Đọc những lời tức tưởi như vậy, thực tình tôi không muốn bình luận gì thêm. Chỉ thấy vang vang trong đầu câu hỏi của Nguyễn Minh Châu: “Sao mà khổ vậy?”

Ừ, sao mà khổ đến mức như vậy mà người ta vẫn chịu đựng được mãi?

tienphong.vn - Học giả Trung Quốc bác bỏ 'đường lưỡi bò'


tienphong.vn



Tàu hải giám Trung Quốc  
 
TP - "Đường 9 đoạn trên Nam Hải là một đường hư ảo. Tiền nhân của chúng ta vạch ra Đường 9 đoạn không hề có kinh độ hay vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp luật..."- học giả người Trung Quốc Lý Lệnh Hoa nói.

Ngày 14-6, hội thảo “Nam Hải tranh đoan, quốc gia chủ quyền dữ quốc tế quy tắc” (Tranh chấp Biển Đông, chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế) được Viện nghiên cứu kinh tế Thiên Tắc và báo điện tử Sina.com tổ chức tại Viện NCKT Thiên Tắc.

Chủ trì hội thảo là ông Dương Tuấn Phong, giảng viên ĐH Công an TQ. Hai vị khách mời đăng đàn chính là Lý Lệnh Hoa, nghiên cứu viên Trung tâm thông tin hải dương Trung Quốc và Thời Đoàn Hoằng, giáo sư ĐH Nhân dân, Tham sự Quốc vụ viện (cố vấn của Chính phủ - người dịch).

Tham dự còn có nhiều giáo sư, học giả nổi tiếng ở các viện nghiên cứu, các trường đại học, các tạp chí nghiên cứu. Tại hội thảo đã xảy ra tranh luận gay gắt giữa các quan điểm được báo chí Trung Quốc gọi là “phái bồ câu” và “phái diều hâu”.

Ngày 21 - 6, trên các trang báo điện tử, các diễn đàn mạng, các blog Hoa ngữ đã đăng tải các ý kiến phát biểu tại hội thảo.

Đáng chú ý là ý kiến của ông Lý Lệnh Hoa (sinh năm 1946, tác giả của hơn 90 bài báo về vấn đề biển và luật biển đăng trên các báo chí Trung Quốc), một trong những người được coi là có quan điểm “bồ câu”. TPCN xin trích dịch.

“Tôi đã nghiên cứu biển hơn 20 năm tại Trung tâm thông tin hải dương. Hôm nay rất vui mừng được thảo luận với mọi người về vấn đề Nam Hải (cách gọi của người Trung Quốc về Biển Đông - người dịch).
Tôi có đem tới đây một số kết quả nghiên cứu mới nhất của giới học thuật về vấn đề phân định Nam Hải, như “Các sự kiện luật quốc tế Trung Quốc”, “Văn tập nghiên cứu quốc sách hải dương”, “Tranh chấp Nam Hải”, “Vấn đề hải dương”… Khi nói về vấn đề Nam Hải, tôi rất chú ý đến quan điểm của những người này.
Tôi có cảm giác, từ hơn 1 năm qua, đặc biệt từ tháng 4 năm nay sau khi xảy ra xung đột giữa ta với Philippines, vấn đề Nam Hải rất nóng.

(…) Hiện nay, nhiều học giả trong nước khẳng định về “Đường 9 đoạn” (tức Đường biên giới biển theo yêu sách của Trung Quốc được thể hiện bằng 9 đoạn, còn gọi là Đường Lưỡi bò, hay Đường hình chữ U - Người dịch); nhưng trên toàn thế giới từ xưa đến nay không hề có đường biên giới trên bộ hay trên biển hư ảo.



Ông Lý Lệnh Hoa, người chủ trương cần giải quyết vấn đề tranh chấp trên Biển Đông theo “Công ước Biển Liên Hợp Quốc” và các quy tắc quốc tế    

Đường 9 đoạn trên Nam Hải là một đường hư ảo. Tiền nhân của chúng ta vạch ra Đường 9 đoạn không hề có kinh độ hay vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp luật.

Tháng trước, khi thuyết giảng cho các nghiên cứu sinh về Nghiên cứu hải dương và biển giới Trung Quốc tại Đại học Vũ Hán, tôi cũng đã nói: căn cứ pháp luật thực sự phải là “Công ước Biển Liên hợp quốc” năm 1982.

Huống hồ, nước ta là quốc gia đã ký và phê chuẩn “Công ước”. Đường 9 đoạn chiếm tới hơn 80% diện tích vùng nước Nam Hải.

Đường ranh giới của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam - Người dịch) được tạo nên bởi 28 điểm cơ bản, được các chuyên gia Cục Hải dương vẽ nên trước năm 1995.

Nó bao gồm nhiều mỏm đá, với diện tích biển rộng tới trên 12.000 dặm vuông. Sau khi công bố đã bị các chính phủ Việt Nam và Philippines phản đối và phê phán. Việc xác định 28 điểm cơ bản này vốn đã có rất nhiều chỗ không chuẩn xác, cũng không đạt cả về chỉ tiêu kỹ thuật.


Bản đồ hình lưỡi bò phi lý do Trung Quốc đặt ra   

Hiện nay lại vẫn muốn làm kiểu hoạch định mơ hồ như thế ở quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam - Người dịch). Tài nguyên Nam Hải rất phong phú, nước ta có tranh chấp với 5 quốc gia như Việt Nam, Philippines…

Chúng ta cần chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương pháp đàm phán hoà bình theo tinh thần của Công ước, không được sử dụng vũ lực giải quyết.

Căn cứ xu thế phát triển của Luật biển quốc tế hiện nay và kinh nghiệm thực tiễn của quốc gia, các nước ven bờ Nam Hải trước hết cần hoạch định Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và biên giới Thềm lục địa…

Tương lai cần căn cứ Điều 74 và 83 về Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và Thềm lục địa để hoạch định lại biên giới biển của Nam Hải.

Philippines được bao nhiêu, Brunei được bao nhiêu, Việt Nam được bao nhiêu, Indonesia được bao nhiêu… chắc chắn không thể căn cứ hoàn toàn theo chủ trương hoạch định của từng quốc gia như hiện nay.

Các nước trong cuộc phải thống nhất về lý luận và phương pháp hoạch định, lấy cơ sở là các nguyên tắc thông dụng về hình dạng và độ dài bờ biển để tính ra tỷ lệ, thông qua đàm phán hoà bình, hữu nghị song phương hoặc đa phương để giải quyết vấn đề biên giới Nam Hải.

Thịnh Hồng (Viện trưởng Viện NCKT Thiên Tắc, Giáo sư ĐH Sơn Đông): Đường màu xanh là hoạch định 200 hải lý của các nước phải không?

- Đúng vậy! Đường màu xanh trên bản đồ là phân định Vùng đặc quyền kinh tế theo Luật Biển. Đảo Hoàng Nham nằm ở đây. Theo Khoản 3, Điều 121 của “Công ước Biển Liên hợp quốc”, Trung Quốc chúng ta chỉ có vùng biển lãnh hải 12 hải lý.

Thềm lục địa và Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Philippines ở đây, cho nên dù tàu cá hay tàu chiến của chúng ta khi đến Hoàng Nham đều đi vào Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của người ta.

“Công ước Biển Liên hợp quốc” đã là công ước thì bất cứ quốc gia nào cũng phải bị chế tài. Tất cả đều phải xử lý theo công ước.

Thịnh Hồng: Căn cứ của Đường 9 đoạn mà chúng ta vạch ra là gì?

- Chả có căn cứ gì! Đó chỉ là tuyên bố đơn phương năm 1947 mà thôi!

Thịnh Hồng: Không được các nước khác thừa nhận ư?

- Cũng có, nhưng đó chỉ là chuyện trong lịch sử. Hiện nay, đặc biệt là những năm gần đây, các nước xung quanh Nam Hải đều không để ý đến nữa.

Thời đại đang tiến lên, khi hoạch định ranh giới biển chúng ta cần phải làm theo tinh thần “Công ước Biển Liên hợp quốc” và quy tắc quốc tế, chứ không thể nói là căn cứ theo những cái gọi là nhân tố lịch sử, nước giàu hay nghèo, người đông hay ít, địa chất địa mạo đáy biển. Những thứ đó đều không phải là căn cứ để phân định biên giới.

Theo tôi, căn cứ vào Luật Biển mà làm thì nhân dân các nước ven bờ Nam Hải, nhân dân Trung Quốc đều có vùng biển 200 hải lý rộng rãi, có đủ không gian để phát triển nghề cá, khai thác tài nguyên đáy biển.

Trong tương lai, các nước láng giềng kinh tế phát triển thì chúng ta cũng được hưởng lợi. Nhìn vấn đề từ góc độ toàn nhân loại, chúng ta cần có quan điểm toàn cục, cần tiến cùng thời đại.     
   

Bãi đá Scarborough tranh chấp giữa Trung Quốc với Philippines. Khi triều lên chỉ có một mỏm đá màu vàng nhô lên  

(…) Cách nói “Quần đảo Nam Sa và vùng biển phụ cận” của chính phủ ta thật quá mơ hồ. Phụ cận bao nhiêu hải lý đều không thể nói rõ được. Đó không phải là thứ ngôn ngữ pháp luật. Chúng ta cần phải tôn trọng các điều văn của “Công ước Biển Liên hợp quốc”.

Chỉ có các cách nói về 12, 24, 200 và 350 hải lý. Do các đảo Nam Sa diện tích nhỏ hẹp, cách xa Đại lục, không đủ điều kiện cho con người sinh sống, nên nước ta không thể xác định các điểm cơ sở lãnh hải ở đó.
Vì vậy, ta không thể có được Vùng nước đặc quyền kinh tế rộng lớn ở phía Nam của Nam Hải…

Chính phủ ta xưa nay chưa hề chính thức tuyên bố về Đường 9 đoạn. Nhưng nhiều sách giáo khoa và báo chí lại coi Đường 9 đoạn là biên giới biển chính thức của Trung Quốc, nên dẫn đến việc dân chúng coi Nam Hải thành vùng biển của Trung Quốc.

Lại có một số cơ quan truyền thông không làm rõ ngọn ngành về vấn đề này, động một tý là kêu phải đưa tàu chiến đi đánh. Tôi cho rằng cần phải sớm xác định rõ địa vị pháp luật của Đường 9 đoạn. Không làm rõ ràng thì tương lai rất dễ xảy chuyện (…).

Trương Thử Quang (Chủ tịch Hội đồng Học thuật Viện NCKT Thiên Tắc, giáo sư Viện KHXH Trung Quốc): Ông nói Đường 9 đoạn là do nước ta vạch ra năm 1947. Vậy dựa vào đâu để vạch ra cái đó?
- Đường 9 đoạn không hề có chỗ dựa (căn cứ) về pháp luật! Trong nước có các nhà luật học, cả các đồng nghiệp ở Đài Loan cũng có chung nhận thức như thế. Hồi đó, các nước ven bờ có nước còn chưa độc lập, nó chỉ do Trung Quốc đơn phương tuyên bố mà thôi. 


Tôi xin tổng kết một chút: tôi cho rằng vấn đề chủ yếu nhất trong nội hàm của “Công ước biển LHQ” là phân định và bố cục lại vùng biển, để mỗi quốc gia ven biển đều có thể có 200 hải lý (hoặc vùng biển tương đối rộng rãi), Thềm lục địa và Vùng biển kinh tế, thuận tiện cho các nước khai thác, sử dụng và quản lý biển, để toàn nhân loại đều hướng tới con đường cùng nhau giàu có.

Đó cần phải là căn cứ cơ bản để chúng ta và các nước xung quanh giải quyết tranh chấp Nam Hải. Nước ta là quốc gia đã ký “Công ước Biển Liên hợp quốc”, thì chúng ta cần phải xử lý mọi việc theo tinh thần “Công ước”, tỏ cho thiên hạ thấy sự thành tín của mình”.

Thu Thủy trích dịch
Nguồn: tienphong.vn
DĐTK đăng lại từ Bauxite Việt Nam

Đoan Trang - Trung Quốc ngang ngược chà đạp luật pháp quốc tế


Đoan Trang

Trung Quốc căn cứ vào đường lưỡi bò do mình đơn phương đưa ra và muốn biến vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thành “vùng tranh chấp”.

Khu vực chín lô dầu khí mà Trung Quốc đưa ra mời thầu thăm dò khai thác không phải là khu vực tranh chấp. Nó nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Câu hỏi nhiều người đặt ra là: Vậy Trung Quốc căn cứ vào đâu để công khai mời thầu quốc tế ở địa điểm này?
Bản đồ công bố trên website của Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) cho thấy cả chín lô dầu khí mà Trung Quốc đang mời chào thăm dò, khai thác đều nằm trong vùng biển thuộc đường lưỡi bò và nằm dọc theo đường chín đoạn “tai tiếng” này. (Xem ảnh)


Đây là yêu sách phi lý của Trung Quốc nhưng Trung Quốc ra sức để thế giới công nhận điều này. 
Mâu thuẫn, lật lọng

Với việc đưa ra đường lưỡi bò để đòi chủ quyền đối với 75% diện tích biển Đông, Trung Quốc đã hành xử một cách “phi UNCLOS”. Văn bản quan trọng này (UNCLOS 1982) ra đời ngày 10-12-1982 và Trung Quốc ký phê chuẩn và tham gia vào ngày 7-6-1996.

Lúc đầu, với tấm bản đồ đường lưỡi bò được công bố chính thức lần đầu tiên ra thế giới ngày 7-5-2009, Bắc Kinh chỉ nói chung chung rằng họ “có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trong biển Đông và các vùng biển lân cận; có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và lòng đất của những vùng biển này”. Tuy nhiên, họ không hề xác định tọa độ, phạm vi cho “vùng biển lân cận”, “vùng biển liên quan” và cũng không dùng tới các thuật ngữ của UCNLOS, như nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa… để định nghĩa “biển” của họ.

Đã ký phê chuẩn UNCLOS nhưng Trung Quốc lại đưa ra yêu sách hoàn toàn phi UNCLOS, rồi công khai mời thầu những lô dầu khí trong một vùng biển tự cho là của mình - những hành động đó cho thấy sự mâu thuẫn, lật lọng trong chính sách của Trung Quốc trên biển Đông.

“Bước đi có lợi cho Trung Quốc”!

Việc dựng ra một đường lưỡi bò không tọa độ, rồi mời thầu trong vùng biển nằm trong ranh giới lưỡi bò có thể còn cho thấy những ý đồ kín đáo hơn của Trung Quốc.

Trong một bài viết trên tờ The Diplomat ngày 27-6, học giả Mỹ Matt Taylor Fravel, Giáo sư khoa học chính trị Viện Công nghệ Massachusetts, nhận định đại ý người ta đang lo ngại về vùng tranh chấp trên biển Đông. Ông phân tích: Như bản đồ (đăng tải trên website của CNOOC) cho thấy các lô này nằm ngoài khơi bờ biển miền Trung của Việt Nam, trải rộng hơn 160.000 km2. Rìa phía tây của một số lô nằm cách bờ biển Việt Nam không đầy 80 hải lý, nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tất cả các lô đều chồng lấn ít nhất là một phần với các lô của PetroVietnam, kể cả những điểm có tiềm năng dầu khí mà các công ty nước ngoài đang tiến hành hoạt động thăm dò.

GS Fravel cũng viết: “Có lẽ các công ty nước ngoài ít có khả năng hợp tác với CNOOC để đầu tư ở các lô đang tranh chấp. Tuy nhiên, hành động của CNOOC rất có ý nghĩa, vì một số lý do. Việc tuyên bố mời thầu cho thấy một bước đi mới trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm củng cố quyền chủ quyền tại vùng biển này. Chẳng hạn, mới tuần trước thôi, Trung Quốc đã nâng địa vị hành chính của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ cấp huyện lên cấp vùng, thuộc tỉnh Hải Nam”.

Nghĩa là mặc dù thừa nhận rằng “một số lô… nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế” của Việt Nam nhưng GS Fravel cũng đã “mặc nhiên” coi đây là khu vực chồng lấn, tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nói cách khác, dưới mắt nhiều người, Bắc Kinh đã phần nào “thành công” trong việc biến vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam thành vùng tranh chấp. Từ đây, việc đẩy vấn đề theo hướng “gác tranh chấp, cùng khai thác”… biển của Việt Nam chỉ là một bước ngắn!

“Rõ ràng thuộc Việt Nam”!

Trong một diễn biến khác, tại cuộc hội thảo quốc tế về biển Đông ngày 27-6 tại thủ đô Washington, D.C. (Hoa Kỳ), Giáo sư Carlyle Thayer, Học viện Quốc phòng Úc, khẳng định: Các lô dầu khí mà Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) mời thầu thăm dò - khai thác trên biển Đông nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

TS Bonnie Glasser, chuyên gia về châu Á của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), cảnh báo: Bất cứ công ty dầu khí nước ngoài nào có ý định tham gia thầu với Trung Quốc tại các lô nằm trong vùng thềm lục địa của Việt Nam đều phải thấy mức độ rủi ro rất cao và phải “suy nghĩ thật kỹ” trước khi quyết định. 
 
Hội Luật gia ra tuyên bố phản đối Trung Quốc

Hội Luật gia Việt Nam vừa ra tuyên bố phản đối việc Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) mời thầu thăm dò - khai thác tại chín lô trên biển Đông:
“Hội Luật gia Việt Nam cực lực phản đối và yêu cầu phía Trung Quốc hủy bỏ ngay việc mời thầu sai trái, không có hành động làm phức tạp tình hình ở biển Đông và mở rộng tranh chấp…

Việc làm của Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) đã vi phạm nghiêm trọng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (tại các Điều 58, Điều 76, Điều 77 v.v...) mà chính Trung Quốc là quốc gia thành viên, đồng thời vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động này cũng đã đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc và các quốc gia thành viên ASEAN ký năm 2002, cũng như Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc ký tháng 10-2011.

Hội Luật gia Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc tuân thủ nghiêm túc Công ước Luật Biển năm 1982 cũng như luật pháp quốc tế liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết được nêu trong Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông; hủy bỏ ngay công bố mời thầu sai trái nói trên. Hội Luật gia Việt Nam kêu gọi giới luật gia các nước trên thế giới có tiếng nói bảo vệ công lý, bảo vệ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 và đề nghị các công ty dầu khí quốc tế tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, không tham gia dự thầu chín lô dầu khí mà CNOOC công bố mời thầu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam…”.

NL (trích)

Ngày 27-6, trước hành động ngang ngược mời thầu thăm dò, khai thác chín lô dầu khí trên biển Đông của CNOOC, ông Đỗ Văn Hậu, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), đã tuyên bố: “Đây là việc làm sai trái, không có giá trị, trái với Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982 và không phù hợp với thông lệ dầu khí quốc tế”. PVN “cực lực phản đối và yêu cầu CNOOC hủy bỏ ngay hoạt động mời thầu, nghiêm túc tuân thủ thỏa thuận về những nguyên tắc giải quyết vấn đề tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982”.  

Đ.T.
Nguồn: phapluattp.vn


Trịnh Hội - Đám Đông Thầm Lặng (2)


Trịnh Hội


Chị Bùi Thị Minh Hằng ôm chiếc nón 'Hoàng Sa-Trường Sa-Việt Nam' sau cuộc giằng co với lực lượng đeo băng đỏ

Thật ra nếu nói người Việt Nam chưa bao giờ dám xuống đường biểu tình để đòi chính phủ thực thi những quyền hạn tự do, dân chủ thì cũng không hẳn chính xác cho lắm. Vì trên thực tế, vào ngày này năm ngoái, đã có hàng ngàn người Việt từ già đến trẻ xuống đường biểu tình ở Sài Gòn và Hà Nội. Và tuy mục tiêu chính của những buổi xuống đường này là để chống đối sự tham lam quá độ của Trung Quốc trong vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng chúng ta ai cũng có thể đồng ý rằng những buổi xuống đường ấy là một cách gián tiếp mà người dân muốn phản đối các chính sách của nhà cầm quyền Hà Nội.

Dĩ nhiên nếu so với những cuộc biểu tình rầm rộ ở Yangon thì chúng ta không thể nào sánh bằng. Kể cả ở số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên có còn hơn không. Và nếu như ở Việt nam hiện nay có nhiều phụ nữ như chị Bùi Thị Minh Hằng, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, v.v…thì chắc còn lâu Đảng Cộng Sản Việt Nam mới còn dịp nắm toàn quyền sinh sát.

Nhưng mà thôi. Đấy là chuyện ở trong nước. Hôm nay tôi đã bảo là tôi sẽ nói về cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà lị.

Nhìn chung tôi thấy thế này. Đó là ở bất cứ nơi nào có nhiều người Việt cư ngụ cũng có nhiều hội đoàn, đoàn thể được thành lập. Từ các cộng đồng được bầu ra ở địa phương, các cấp tiểu bang hay liên bang như ở Úc, Canada. Cho đến các hội cựu quân nhân, hội giúp người nghèo, nhà thờ, chùa, những tổ chức phi chính phủ, bất vụ lợi như VOICE được thành lập để tranh đấu quyền lợi cho những người tỵ nạn. Tất cả đều tạo nên một bức tranh xã hội rất sống động đặc trưng cho một xã hội dân sự lành mạnh nơi mà tất cả mọi người – đám đông thầm lặng – được trực tiếp tham gia vào những hoạt động xã hội hay chính trị mà mình yêu thích.

Chị thích tham gia vào các hoạt động từ thiện xóa đói giảm nghèo? Đó là một điều rất tốt. Anh chỉ mơ được góp công, góp của để tranh đấu cho tự do, dân chủ ở Việt Nam? Quả là một việc rất đáng làm. Riêng chúng tôi không thích tham gia vào bất cứ hoạt động nào. Chỉ biết sáng đi làm, tối về nghỉ, cuối tuần ở nhà lo cho vợ, lo cho con? That’s OK too!

Nói tóm lại sự xuất hiện của nhiều hội đoàn, đoàn thể, cá nhân phản ảnh trực tiếp sự suy nghĩ và giá trị của ‘the critical mass’. Đôi lúc nó sẽ ất ồn ào, có nhiều va chạm và nhất là mang đến những tai tiếng không tốt đối với những người luôn thích ‘ăn cơm nhà, vác ngà voi’. Tuy nhiên nếu thiếu nó thì chắc chắn một điều đấy không phải là một xã hội dân sự thật sự nơi mà mọi người đều có thể lên tiếng. Kể cả những tiếng nói phản cảm, đầy ác ý.

Đã sống trong một xã hội dân chủ là phải biết chấp nhận sự chỉ trích. Phải biết là sẽ không bao giờ bạn nhận được sự ủng hộ 100% hay 80% hay thậm chí là 60% từ đa số thầm lặng này. Ngay cả ở những nước dân chủ nhất, văn minh nhất như Úc, Mỹ… chuyện tổng thống hay thủ tướng chỉ thắng được 52% hay 53% phiếu bầu là chuyện thường tình ở huyện. Thắng kiểu hơn 90% hay ‘hoàn toàn nhất trí’ trong các cuộc bầu cử ở Việt Nam mới là có vấn đề.

Vì ai cũng biết chín người, mười ý. Ngoại trừ khi ý ấy không được phép lộ ra.

Đó cũng là lý do tại sao ở hải ngoại trong các cộng đồng người Việt và đối với một số vấn đề trong xã hội nó đều trông có vẻ như hơi bát nháo, có quá nhiều cuộc tranh cãi, ỳ xèo. Y như thời của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.

Nhưng đó là lẽ tất nhiên luôn có mặt trong bất kỳ sinh hoạt dân chủ phôi thai nào. Từ Á Châu sang đến Phi Châu. Phải có những buổi tranh luận nảy lửa đến độ đã có những nhà dân biểu phải thượng cẳng hạ chân tay ngay giữa phòng họp quốc hội, ở Nam Hàn, Đài Loan vào những thập niên trước, thì sau này, sau quá trình thanh lọc tự nhiên, họ mới xây dựng được những nền dân chủ thật sự.

Trở lại với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, có tranh cãi đến đâu thì chúng ta cũng phải công nhận ít nhất ba điều này.

Thứ nhất, số tiền mà cộng đồng người Việt cùng nhau gom góp gửi về Việt Nam để giúp gia đình, giúp những người nghèo khó hàng năm có thể lên đến ít nhất vài trăm triệu đô. Đây là một con số rất lớn và đã giúp được rất nhiều người.

Thứ hai, nếu như không có mặt của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, không có tiếng nói của họ về những vấn đề to lớn của đất nước thì chắc chắn một điều là cộng đồng quốc tế sẽ không thể nào biết rõ để kịp thời can thiệp.

Và thứ ba, rõ đúng là ‘the critical mass’ ở hải ngoại đã và đang thực hiện những quyền lợi căn bản mà họ phải bỏ nước ra đi mới đạt được. Tôi nghĩ chúng ta không nên xem thường vấn đề này. Vì khác với những người Việt trong nước, chúng ta được nói và sống theo đúng lương tâm của mình. Đây là điều mà chúng ta luôn nên trân trọng. Để nhận thức được rằng chúng ta đã may mắn hơn rất nhiều những người con khác của Việt Nam.

Nói như thế không có nghĩa là ở Việt Nam không có những người dám nói, dám làm. Đôi khi tôi thấy họ còn dám làm, dám nghĩ hơn hẳn chúng ta. Mặc dù họ phải mất hơn rất nhiều. Và phải chịu đựng hơn tất cả những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng được trong hoàn cảnh hiện tại của đất nước.

Đó là lý do tại sao tôi rất cảm phục họ. Rất trân trọng họ. Và chỉ ước mong sao trong một ngày gần đây tôi thể làm được một chút gì đó cho tương lai dân tộc.


Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

‘ HÃY NỔI GIẬN ! ’ ‘Indignez-vous!’ hay hiện tượng Hessel ở Pháp. Tại sao vẫn chưa có « cách mạng mùa Xuân » ở VN ?


Từ Thức

Một hiện tượng bất ngờ trong sinh hoạt văn hoá ở nước Pháp : một cuốn sách mỏng của của Stéphane HESSEL, ‘Indignez-vous!’ (Hãy phẫn nộ!) dự tính bán vài trăm bản, đã phá kỷ lục ấn hành : trên bốn triệu cuốn và tiếp tục gây tranh luận sôi nổi. Tác giả, một ông già 93 tuổi, hô hào mọi người hãy nổi giận, hãy đứng dậy chống lại tất cả những bất công, những lộng hành của giới thống trị, tài chính hay chính trị đang đè nặng lên đầu mỗi người.


Nổi giận, theo Hessel, là điều kiện tối cần để con người còn là con người, để xã hội khỏi phá sản. Hãy dẹp thói an phận thủ thường, thụ động, hãy đứng dậy cầm vận mệnh mình trong tay ! Người ta áp bức, bóc lột anh bởi vì anh chấp nhận. Khả năng phẫn nộ là điều kiện tối cần để anh trở thành, hay tiếp tục, là người có nhân phẩm và một quốc gia không trở thành một quốc gia chết.

Người Việt có , -hay còn - khả năng phẫn nộ hay không là câu hỏi và vài suy nghĩ vụn vặt trong bài này. Phải chăng cường độ phẫn nộ của dân Việt không đủ mạnh là một trong những lý do tại sao Việt Nam vẫn chưa có biến chuyển lớn như ở Trung Đông hay Bắc Phi ?

NHU CẦU PHẪN NỘ

Cuốn sách mỏng của S.Hessel, do một nhà xuất bản bỏ túi, Indigènes, ở Montpellier, miền Nam nước Pháp (trong khi sinh hoạt văn hóa tập trung ở Paris), không một dòng quảng cáo, mới đầu bán ở những tiệm sách tỉnh lẻ, dần dần nhờ truyền miệng, trở thành một hiện tượng văn hoá xã hội, được dịch trên 30 thứ tiếng.
Hessel từ chối nhận bản quyền, và nhà xuất bản hứa sẽ dùng số tiền bán sách để in những tác phẩm có thể giúp cải thiện xã hội.

Những tay nhà nghề trong giới ấn loát lắc đầu chịu thua : cuốn sách đứng đầu các danh sách best sellers từ gần một năm nay không phải là tác phẩm của những nhà văn ăn khách như Houellebecq, Jardin, Delerm, không phải là tiểu sử tài tử show biz, không phải sách dạy cách ăn uống cho khỏi mập, không phải là một chuyện tình ướt át, hay một tiết lộ động trời, thật hay bịa, không nói về cuộc đời tình ái náo nhiệt của DSK. Đó là cuốn sách rất khô khan của một ông già gần trăm tuổi hô hào dân chúng nổi giận, hô hào thanh niên đừng thụ động như những ông cụ non.

Hessel không phải là triết gia, không phải là nhà văn, cuốn sách rất mỏng của ông không phải là một tác phẩm lớn, nhưng cuốn “Indignez-vous” bán chạy như bánh mì, vì nó đáp ứng một nhu cầu người ta tưởng là thứ yếu : nhu cầu phẫn nộ .

Người ta mua tặng quà cho nhau nhân ngày Giáng sinh, ngày sinh nhật, trong đó nhiều người chưa hề mua, chưa từng mở một cuốn sách. Những phong trào phẫn nộ (les indignés) đã lan sang nhiều nước Âu Châu, như Hy Lạp, Tây Ban Nha (les indignalos) , hay phong trào Occupy Wall Street ở New-York, trước cửa những ngân hàng thủ phạm của cuộc khủng hoảng kinh tế làm thế giới điêu đứng.

Hessel là người suốt đời nổi giận. Sinh năm 1917 ở Đức, gốc Do Thái, quốc tịch Pháp đã tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Bị bắt giam ở nhà tù phát xít nổi tiếng Buchwall, bị kết án tử hình, ông tráo căn cước của một người tù vừa chết bị án nhẹ hơn và vượt ngục. Sau chiến tranh, ông trở thành đại sứ của Pháp ở Liên Hiệp Quốc và tham dự việc soạn thảo bản Tuyên ngôn Nhân quyền. Về hưu, ông già Hessel là một khuôn mặt quen thuộc trong những cuộc biểu tình cho nhân quyền, biểu tình bênh vực người di dân, bênh vực Palestine mặc dầu ông gốc Do Thái. Ở đâu có phẫn nộ, có bất công, ở đó có ông già Hessel.

Sau khi cuốn Indignez-vous ! trở thành một hiện tương xã hội, người ta trách tác giả chỉ xúi thiên hạ nổi giận mà không có đề nghị gì cụ thể, Hessel viết một cuốn sách mỏng khác : Engagez-vous (2) (Hãy tham gia hành động!), trong đó ông đề nghị tranh đấu đòi thành lập Tổ chức Thế giới về môi sinh, và một Chính phủ toàn cầu (gouvernement mondial ). Một mơ ước hão huyền ( utopie )? Tất cả những thay đổi lớn trong lịch sử, theo Hessel, đều là những utopie khi khởi sự.

Cuốn thứ ba, le Chemin de l’Espérence (Con đường của hy vọng) (3), viết chung với nhà xã hội học hàng đầu của Pháp, Edgar Morin, trong đó hai ông già, tổng cộng 184 tuổi vạch ra con đường hy vọng để đi đến một tương lai tốt đẹp hơn.

IL FAUT VIVRE INDIGNE

Hessel nối tiếp truyền thống của trí thức Zola, Camus. Emile Zola viết : Il faut vivre indigné ! (phải sống phẫn nộ). Từ Zola, trí thức đích thưc là trí thức tham dự sinh hoạt xã hội, chính trị để cải thiện xã hội, không phải chỉ là những người có kiến thức. Ở Việt Nam, ngay cả kiến thức cũng không cần thiết. Trí thức chỉ cần có bằng cấp. Học gạo, học tủ, chong đèn học thuộc lòng, có xong cái bằng là trở thành trí thức, là khuôn vàng thước ngọc. Có bằng vừa vừa là trí thức vừa vừa, có bằng to hơn là đại trí thức… Trí thức vừa vừa được kính trọng vừa vừa, đại trí thức được kính cẩn tối đa.

Albert Camus nói trí thức cũng như mọi người, hơn mọi người chính bởi vì anh là trí thức, phải ghé vai gánh vác như mọi người, phải đổ mồ hôi chèo thuyền như mọi người. Khác hẳn hình ảnh trí thức ‘võng anh đi trước, võng nàng theo sau’ của người VN, có cái bằng bỏ túi là vinh hiển suốt đời, phó mặc chuyện đời cho thiên hạ.

Cuốn sách của Hessel ra đời trước khi cách mạng hoa lài bùng nổ ở Tunisie, mở đầu cho ‘mùa Xuân Ả Rập’ đang quét sạch những chế độ độc tài ở Bắc Phi và Trung Đông. Cùng một lúc, từ Đông sang Tây, thế giới đang chuyển mình, đang tìm một hướng đi mới. Đã tìm ra lối ra chưa, đã thoát khỏi đường hầm chưa là chuyện khác. Bước đầu là ý thức mình có quyền phẫn nộ, có bổn phận phẫn nộ, và sự phẫn nộ có thể thay đổi thời cuộc, có thể và đã lật đổ những chế độ độc tài đã ngự trị từ lâu và tưởng sẽ ngự trị mãi mãi, như ở Ai Cập, Tunisie, Lybie.

Trước đó vài tuần, ai dám tưởng tương Moubarak sẽ bị kết án khổ sai chung thân, ông Ali phải cuốn gói bỏ của chạy lấy người, Khadafi bị bắn chết . Trước đó vài tuần, họ nắm toàn quyền sinh sát, nắm quân đội, cảnh sát, hành pháp, lập pháp, tư pháp, nắm trọn kinh tế, tài chánh trong tay. Cái gì đã quét sạch tất cả: sự phẫn nộ của quần chúng, của những người hàng ngày chỉ biết an phận, cúi đầu .

Các chế độ độc tài không mạnh như người ta tưởng. Chỉ cần sự phẫn nộ của người dân, các lãnh tụ độc tài Trung Đông, Bắc Phi, một sớm một chiều, đã trở thành những con hổ giấy.

TỪ MIẾN ĐIỆN TỚI VN

Tại sao có cách mạng ở Trung Đông, ở Miến Điện mà ở VN chưa có “cách mạng muà Xuân”, mặc dù đã hội tụ đủ mọi điều kiện : bế tắc chính trị, khủng hoảng kinh tế, sa đọa xã hội, và ghê gớm, khẩn cấp hơn nữa, hiểm họa mất nước?

Lấy thí dụ Miến Điện. Tại sao có thay đổi ở Miến Điện? Những yếu tố hiển nhiên: Miến Điện sẽ làm chủ tịch ASEAN 2014, tinh thần quốc gia gần như cực đoan của giới quân phiệt cầm quyền (độc tài, tham nhũng không thua ai, nhưng vẫn yêu nước) thấy hiểm họa Trung Cộng trước mắt. Giới quân phiệt muốn nhích lại với Tây phương, không thể không nhượng bộ, không thể tiếp tục giam tại gia bà Aung Suu Kyi, khuôn mặt khả ái, khả kính của nhân quyền ở Miến.

Rất nhiều người VN lên đường chống thực dân vì lòng ái quốc, nhưng đảng Cộng sản đã đưa VN vào quỹ đạo Nga, Hoa, nhất là Hoa, ngày nay tập đoàn lãnh đạo bắt buộc phải bám vào Trung Cộng để sống còn, để bảo vệ quyền lợi. Bi đát hơn nữa : có muốn ra khỏi quỹ đạo cũng quá trễ. Cái thòng lọng Tầu đã xiết chặt cổ.

Đó là những yếu tố chính trị. Yếu tố văn hoá : người VN không có truyền thống phản kháng. Văn hóa VN không phải là văn hóa phẫn nộ của Stéphane Hessel. Văn hoá VN là văn hóa “một sự nhịn, chín sự lành”. Cái văn hóa “tránh voi chẳng hổ mặt nào ” giúp con voi càng ngày càng thô bạo.

Cái thói quen chịu đựng, cộng thêm với văn hoá Khổng giáo, đúng hơn là Tống nho, coi vua là con trời, hơn cả cha mẹ, và “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”, đã biến chúng ta thành những người thụ động.

Câu hỏi đặt ra : tại sao cách mạng ở Tunisie và Ai Cập mà vẫn không có biến chuyển ở VN. Hai dân tộc Tunisie và Ai Cập được coi là hai dân tộc thụ động nhất ở Bắc Phi và Trung Đông. Tôi nhớ một buổi trò truyện với một số người Tunisiens sống ở Paris. Tất cả đều có bằng cấp cao, theo con mắt VN, đó là những nhà trí thức. Khi tôi hỏi về tình hình chính trị ở Tunisie, không ai trả lời, lảng sang truyện khác. Sau bữa ăn, khi mọi người ra về, còn lại một người, Ahmed , ông ta cho hay là chính trị xứ ông ta nát bét, dân chủ chỉ là trò bịp, tham nhũng khủng khiếp. Tại sao vừa rồi ông ta không nói gì? Ahmed cười, hơi ngượng, nếu anh nào phát biểu bừa bãi, sẽ có đứa báo cáo tòa đại sứ và hết về nước nghỉ hè. Hai tuần sau, Bouazizi tự thiêu, ngọn lửa phẫn nộ bùng lên, gia đình tổng thống Ali bỏ của chạy lấy người. Ngọn lửa phẫn nộ vượt biên giới, tràn sang Ai Cập và Lybie.

Tại sao những dân tộc được coi là thụ động có cái khả năng phẫn nộ dữ dội như vậy, mà ở VN chưa có? Có một hiện tượng tạm gọi là hội chứng (syndrôme) Algérie. Lửa cháy chung quanh, nhưng Algérie chưa động tĩnh gì, vì dân Algérien đã mệt nhoài, cả về thể xác lẫn tinh thần, chỉ muốn được yên thân. Sau khi dành độc lập khỏi tay thực dân Pháp, đất nước rơi vào tay độc tài , tập đoàn của những lãnh tụ kháng chiến cũ, những người kháng chiến vì lý tưởng độc lập, tự do,công bình, nhân ái, khi nắm quyền làm ngược lại, chứng minh công thức “quyền lực đưa tới tham nhũng. Quyền lực tối đa, tham nhũng tối đa”. Algérie giống VN một điểm nưã: lực lượng công an cảnh sát hữu hiệu. Ở Alger, sau biến cố Tunisie, nhà nước huy động 35.000 cảnh sát bao vây, giải tán 500 người biểu tình. Một ông phẫn nộ, 70 ông cớm!

Algérie có thêm một đại họa : khủng bố Hồi giáo đã gây kinh hoàng và làm tê liệt đất nước. VN (lạy Chúa, lạy Phật) không có khủng bố Hồi giáo, nhưng có đại họa khác làm tiêu tan khả năng phẫn nộ: văn hoá chu di tam tộc. Người Cộng Sản đã khôi phục cái văn hóa của thời man rợ. Anh có tội - sợ mất nước là một cái tội, khóc với dân là một cái tội, nghĩ và đòi quyền sống là một cái tội - không phải chỉ có anh lãnh hậu quả, mà cả gia đình vợ con, cha mẹ, gia đình anh bị liên lụy. Anh có can đảm cùng mình, có coi nhẹ tù đầy và cái quý nhất của con người là mạng sống, anh cũng bó thay khi nghĩ tới cái vạ sẽ đổ xuống đầu những người thân. Cái văn hóa chu di tam tộc nó man rợ nhưng hiệu quả. Hiệu quả bởi vì man rợ. Ai có thể tưởng tượng điều đó ở thế kỷ 21?

Những kỹ thuật đàn áp ghê rợn, điển hình là cuộc Cải Cách Điền Địa đẫm máu, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, những Toà án Nhân dân (!) , những trại cải tạo sau 75, đã tiêu diệt tinh thần phẫn nộ của người Việt.

SỰ MÒN MỎI CỦA LÒNG TRẮC ẨN

Bà Aung San Suu Kyi, trong bài diễn văn cách đây ít ngày ở Oslo than phiền những đóng góp cho các chương trình nhân đạo càng ngày càng giảm bớt. Bà Kyi nói: sự giảm sút đóng góp là kết quả cuả “sự mòn mỏi cuả lòng trắc ẩn ”. Thế giới sẽ đi về đâu, xã hội sẽ đi về đâu nếu không còn lòng trắc ẩn?

Người ta ngỡ ngàng trước cảnh một em bé bị xe nghiến trước sự dửng dưng của mọi người ở bên Tầu. Còn VN? Những chuyện tương tự xẩy ra hang ngày. Một thí dụ, trong những thí dụ : Một bà già bị xe cán, nằm ôm cái chân gẫy, rên rỉ. Nhiều người muốn can thiệp. Người lái xe xuống xe, quát: “Đ. M. Có biết ông là ai không?” Mọi người nín khe, bỏ mặc bà già nằm rên rỉ. Người kể chuyện kết luận : chưa chắc gã lái xe là ông lớn hay con cháu ông lớn.

Còn đâu là lòng trắc ẩn? Không còn trắc ẩn, làm sao có phẫn nộ?
Đó chắc chắn là cái di sản ghê rợn nhất của những năm Cộng sản. Biến con người thành thành vô tâm, vô cảm. Bịt tai, bịt mắt, bịt miệng để sống, thờ ơ trước bất công, lãnh đạm trước cái đau khổ của người khác.Những đổ vỡ về chính trị, về kinh tế có thể hàn gắn trong vài chục năm. Sự sa đoạ về con người, băng hoại văn hoá phải nhiều thế hệ mới hy vọng cứu vãn được. Nếu bắt tay cứu vãn trước khi quá trễ. Trước khi bị diệt vong.

THÁI ĐỘ XẤU NHẤT LÀ SỰ THỜ Ơ

Trong bối cảnh đó, phải khâm phục những người dám bày tỏ sự phẫn nộ cuả mình ở trong nước. Những người đấu tranh cho dân chủ, cho nhân quyền, những Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ, những Hà sĩ Phu, Nguyễn Đan Quế và rất nhiều người khác.

Phải khâm phục những người nông dân mất đất đã tay không đứng dậy. Phải khâm phục những giáo dân, Phật tử đã xả thân đòi tự do tín ngưỡng. Phải khâm phục những bloggers, những nhà báo, những nghệ sĩ đã có can đảm nói lên sự thực. Phải khâm phục những người đã tranh đấu cho công nhân, ở trong nước hay bị bán ra ngoại quốc.

Cái trở ngại cho họ không chắc đã là chính sách đàn áp của người cầm quyền. Cái trở ngại cho họ là sự thờ ơ, thụ động của người chung quanh. Nhiều người tiếc VN không có một người như Aung Suu Kyi. Nhưng nếu bà Kyi là người VN, có bao nhiêu người đứng sau lưng bà như dân Miến. Những Lê thị Công Nhân tranh đấu trong sự cô độc. Cái bản tính thờ ơ, cố chấp, nghi kỵ, ganh ghét của người Việt, ngay cả giữa những người hoạt động cho dân quyền ở VN, đã khiến chúng ta chưa có Aung San Suu Kyi hay Nelson Mandela.

Hessel viết “thái độ xấu nhất là sự thờ ơ” (la plus mauvaise attitude est l’indifférence) và nhắc câu nói của Jean Paul Sartre : mỗi người, với tư cách cá nhân, có trách nhiệm với xã hội ( vous êtes responsables en tant qu’individus).

Sự thờ ơ, với rất nhiều người Việt Nam, đã trở thành một đức tính, một thái độ khôn ngoan của những người từng trải. Người ta hãnh diện, khoe khoang cái túi khôn của mình và dè bỉu cái dại dột của người khác. Ở những nước tân tiến, những người dại dột, những người ăn cơm nhà vác ngà voi, là những tác nhân làm cho xã hội tốt đẹp hơn, công bình hơn, làm cho con người đối với nhau còn là con người.

Sống trong sự hoài nghi thường trực, với sự thờ ơ như một nhân sinh quan khả kính, với tính thụ động như một mục tiêu, lòng trắc ẩn mòn mỏi, với sự vắng bóng của phẫn nộ, bao giờ VN có cách mạng muà Xuân như ở Bắc Phi, Trung Đông, thay đổi chính trị như ở Miến Điện?

Stéphane Hessel nói nếu anh sống dửng dưng, hãy tìm một lý do để nổi giận. Lý do để nổi giận không hiếm: sự lộng hành của tài phiệt đã đưa tới khủng hoảng kinh tế, sự bất công xã hội càng ngày càng ghê rợn, môi trường bị phá hoại… Với người VN, khỏi cần tìm kiếm, những lý do để nổi dậy đếm không nổi : độc tài, nhân quyền, tự do bị chà đạp, nhân công bị bán ra nước ngoài,sống như nô lệ, phụ nữ bị gởi đi bán dâm kiếm ăn, nông dân bị cướp đất, và hiểm hoạ đất nước sừng sững trước mắt.

Vụ Hoàng Sa, Trường Sa đã gây phẫn uất trong mọi giới. Một cơn gió mới. Hy vọng sự phẫn nộ đó sẽ là động lực đưa đến thay đổi ở VN. Thay đổi hay mất nước. Thay đổi hay là chết.

TỪ THỨC
(Paris, Juin 2012)


( 1 ) INDIGNEZ VOUS. Stéphane Hessel. Ed Les Indigènes, Montpelliers, France. 2010. Phát hành: Harmonia Mundi. Bản tiếng Anh: Time For Outrage. Hardoven Editions.
( 2 ) Engagez-vous. Stéphane Hessel. Editions de l’Aube. France. 2011.
( 3 ) Le Chemin de l’Espérence. S.Hessel § Edgar Morin. Ed Fayard. Paris. France. 2011.









S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Người Bị Thiến


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

"Cách mạng không phải để xây dựng lên một chế độ độc tài."


Huỳnh Nhật Hải & Huỳnh Nhật Tấn 

Mới đây, Thanh Niên On Line có bài tường thuật của nhà báo Nguyễn Công Khế về cuộc hội thảo phong trào đấu tranh đô thị từ 1954 đến 1975 (trong hai ngày 19 và 20.5.2012) tại Đà Nẵng:
“Tôi nhìn xuống hội trường của Trường ĐH Duy Tân mà lòng bùi ngùi, xúc cảm. Xúc cảm bởi tất cả các mái đầu đều bạc hoặc chấm bạc. Những Nguyễn Hữu Thái, Phạm Chánh Trực, Lê Quang Vịnh, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Lê Công Giàu, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Vũ Hạnh... của Sài Gòn. Những Chu Sơn, Nguyễn Duy Hiền, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Phước Á, Nguyễn Hoàng Thọ, Nguyễn Văn Bổn, Nguyễn Đồng Nhật, Hoàng Thị Thọ, Trần Hoài, Võ Quê, Phan Hữu Lượng… của Huế. Những Phan Duy Nhân, Huỳnh Văn Hóa, Đỗ Pháp, Lương Thanh Liêm, Lê Đức Hùng của Đà Nẵng. Còn những Bửu Chỉ, Vĩnh Linh, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Quí, Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Phạm Thế Mỹ... và nhiều người thì đã ra đi vĩnh viễn, không có mặt trong cuộc hội ngộ này…”

“Tôi cảm ơn anh Lê Công Cơ người đã hoạt động và lãnh đạo phong trào từ những năm đầu của thập niên 60 thế kỷ trước, nay là Hiệu trưởng Trường ĐH Duy Tân - Đà Nẵng đã có sáng kiến và đứng ra tổ chức cuộc gặp rất có ý nghĩa và đầy cảm xúc này.”

Nội dung của cuộc hội thảo này ra sao (tuyệt nhiên) không thấy ông Nguyễn Công Khế đề cập đến. Bởi vậy, “ý nghĩa” của nó (nếu có) e cũng không sâu sắc gì cho lắm!

Gần hai năm trước, vào ngày 12/01/ 2010, cũng có bài viết liên quan đến “phong trào đấu tranh đô thị” (Bức Ảnh Quý Về Khí Phách Sinh Viên Huế 1975) trên trang Dân Luận:
“Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trong một lần soạn lại sách vở tư liệu gia đình, đã phát hiện ra trong thùng đựng ảnh cũ của gia đình bức ảnh thầy giáo siêu hình học Trường Quốc Học Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường đang diễn thuyết trong một cuộc đấu tranh, với câu khẩu hiệu rất “ác chiến” sau lưng ‘CHÚNG TÔI THÁCH ĐỐ MỌI SỰ ĐÀN ÁP CỦA THIỆU - KỲ’.

Thấy bức ảnh giá trị, Mỹ Dạ bèn ra phố scan lại rồi phóng to treo đầu giường anh Tường nằm. Trong ảnh có rất nhiều sinh viên và ‘cán bộ phong trào’ đứng cạnh anh Tường. Trong ảnh còn có một người mặc xê-vin trắng, thắt cà vạt đứng phía tay trái anh Tường, mắt nhìn xuống. Tôi hỏi anh Tường: ‘Người này là ai ?’
Tường bảo:‘Đó là một vị đại diện bên Ty cảnh sát cử sang để ‘theo dõi’ cuộc mít –tinh’. Mới hay, chính quyền Thừa Thiên Huế những ngày đó cũng rất ngại lực lượng sinh viên xuống đường, nên họ đã không ra tay đàn áp cuộc ‘xuống đường’, mà chỉ ‘theo dõi’ !

Theo nhà thơ Trần Hữu Lục, thời kỳ đó có nhiều ‘tổ chức’ sinh viên Huế độc lập với nhau xuống đường đấu tranh lắm. Ngô Kha cùng Trần Quang Long lập ra nhóm đấu tranh, gọi là ‘Nhóm thanh niên chống xa hoa phóng đãng’ và ‘Quán bạn’, tham gia xuất bản tờ tin ‘lực lượng’ kêu gọi tuổi trẻ đấu tranh, đòi hòa bình dân chủ.

Họ luôn bám trụ ở Trụ sở Tổng hội Sinh viên (22 Trương Định, Huế) để phát động đấu tranh. Họ xuất bản tập san ‘Tự quyết’, thành lập Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung do Ngô Kha làm chủ tịch, tổ chức triễn lãm tội ác của Mỹ tại Huế.

Có một nhóm sinh viên yêu nước khác gọi là NHÓM VIỆT, hoạt động công khai Những năm 1967, 1968, đang là sinh viên đại học, Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trịnh Công Sơn… đã ra tờ báo Thân Hữu (ĐHSP Huế, 1967), Sinh viên Huế (1968) do Trần Hữu Lục làm chủ biên.

Nhóm Việt sau Mậu Thân 1968 vẫn hoạt động công khai bằng cách phối hợp làm trang văn nghệ cho tạp chí Đối Diện, luôn chủ trương tìm về nguồn cội dân tộc, chống lại khuynh hướng lai căng, vong bản. Đến năm 1975, Nhóm Việt mới giải tán.

Hoàng Phủ Ngọc Tường hăng hái làm chủ bút, phóng viên, biên tập viên của nhiều tờ báo như Dân (Tiếng nói đấu tranh của Trí thức Huế), Tiếng nói sinh viên, Việt Nam, Cứu lấy quê hương (Liên minh Huế).

Tất cả các nhóm sinh viên xuống đường đều do cách mạng chỉ đạo. Họ đấu tranh bằng thơ và bằng cả những đêm không ngủ: Tôi muốn hát cho cây cỏ nghe/ Lời giun dế khóc trong đêm lửa cháy...(Thái Ngọc San); Bị bắt vô tù, họ vẫn sục sôi: Thừa Phủ ơi! Lòng ta hồng biển lửa (Võ Quê)… Bị địch đàn áp, bắt bớ, bị lộ, nhiều trí thức sinh viên Huế đã ‘lên xanh’ và trở thành những cây bút xuất sắc của cách mạng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Vàng Sao (*)...”

Tôi sinh sau đẻ muộn, và chưa bao giờ có dịp được đặt chân đến Huế nên không được biết rõ lắm cái “khí phách” của nhiều trí thức sinh viên” (thuở đó) ra sao? Riêng những “cây bút xuất sắc của cách mạng” với tên tuổi (vừa nêu) thì gần như  mọi người đều đã nghe danh. Tưởng cũng nên nghe chính những nhân vật này nói, (hay viết) qua về thành quả “cách mạng” mà họ đã dõng dạc “kêu gọi đấu tranh” khi còn trẻ ... dại:
Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng” (“Nói Chuyện Với

Hoàng Phủ Ngọc Tường Về Biến Cố Mậu Thân  Huế” – Thụy Khuê, RFI, 12 tháng 7, 1997).
Trần Vàng Sao: “Cuộc cách mạng này kinh khủng thật. Không phải nó chỉ thay đổi tâm tính, thái độ, tư tưởng của từng con người mà thay đổi vị trí của từng đồ vật trong từng nhà, cái ghế, cái bàn, cái tủ, cái giường, tôn lợp trên mái nhà, lư hương trên bàn thờ… đều thay đổi chỗ, xếp đặt lại tất cả. Hôm qua cái bàn còn để đó, hôm nay không còn nữa, cái bàn đã đi qua nhà khác, đã ở ngoài chợ. Cuộc cách mạng này đã phá hết, phá tan hết những gì mà từng gia đình đã bòn mót bao nhiêu năm nay từ ông cha đến con cháu để nuôi sống mình, để tồn tại với đời. Và những người làm cách mạng đã thay thế những gì mà họ đã phá sạch bằng công an, bằng quyền lực trấn áp, bằng mệnh lệnh, khẩu hiệu, băng cờ” (Tôi Bị Bắt – talawas, 10.11.2005).

 Nguyễn Đắc Xuân: “Giấu máy ảnh trong áo mưa, tôi đi men theo con đường sát với khu nhà bếp đối diện với xóm Rừng Phương Bối. Nhìn qua hàng rào tôi thấy bên trong hàng trăm người đàn ông, đàn bà, con trai con gái, áo nâu, áo lam nhếch nhác, nhiều người ăn mặc như cán bộ, một số cầm máy ảnh, máy quay phim, đùi, gậy, dao rựa đi đi lại lại, ăn nói, cười cợt lao xao. Tôi liên tưởng đến những côn đồ, xã hội đen, giả Phật tử đã từng tung hoành ở Bát Nhã được lưu trong các trang web phapnanbatnha, phusa, langmai lâu nay. Tôi sợ phải đối đầu với những đồng chí của mình nên muốn nhanh chân ra khỏi nơi này… Tôi cảm thấy kinh hoàng giống như sáng ngày 21-8-1963 khi Cảnh sát Dã chiến thực hiện kế hoạch Nước lũ của ông Ngô Đình Nhu tấn công vào chùa Diệu Đế mà tôi đã từng viết trên báo Giác Ngộ. Và hơn thế nữa, hồi 1963, thấy Cảnh sát Dã chiến tôi có thể nhận ra họ để tìm cách đối phó, còn ở Bát Nhã hôm đó Cảnh sát đồng chí của tôi mặc thường phục, không phân biệt với dân thường, đám xã hội đen lau hau, tôi không biết họ là ai, nếu nhỡ bị họ hành hung đập máy ảnh, thu giấy tờ trong ví của tôi thì tôi không biết ai để mà thưa với chính quyền của tôi” (“Những Bạo Hành Ở Tu Viện Báy Nhã Xin Giải Thích Giùm Tôi” –  sachhiem.net, 5.10.2009).

Quí ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Nguyễn Đắc Xuân đều đã “lên xanh,” đều “trở thành những cây bút xuất sắc của cách mạng” và (rõ ràng) đều không được lạc quan hay hãnh diện gì cho lắm về thành quả mà họ đã “sục sôi, tranh đấu, dấn thân” vào những ngày tháng cũ.

Vậy còn “... Những Nguyễn Hữu Thái, Phạm Chánh Trực, Lê Quang Vịnh, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Lê Công Giàu, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Vũ Hạnh... của Sài Gòn. Những Chu Sơn, Nguyễn Duy Hiền, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Phước Á, Nguyễn Hoàng Thọ, Nguyễn Văn Bổn, Nguyễn Đồng Nhật, Trần Hoài, Võ Quê, Phan Hữu Lượng… của Huế. Những Phan Duy Nhân, Huỳnh Văn Hóa, Đỗ Pháp, Lương Thanh Liêm, Lê Đức Hùng của Đà Nẵng...” thì sao?

Những trí thức và sinh viên học sinh của phong trào đô thị trong cuộc hội ngộ tại Trường ĐH Duy Tân - Đà Nẵng - Ảnh: Lê Văn Thọ

“Các anh các chị, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. Là những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào kết án các anh chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những người vốn nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào đó để thấy lại chính mình...”

Đoạn văn thượng dẫn được trích trong bài viết “Thời Sinh Viên Ở Sài Gòn” của tác giả Trần Trung Đạo, trên trang Đàn Chim Việt – vào hôm 14 tháng 6 năm 2012 – và đã nhận được phản hồi của ông Lâm Vũ như sau:
“Thật ra ai cũng hiểu, rằng họ đã là cá nằm trong rọ. Nhưng đó chỉ là vấn đề thể xác. Không ai có thể nhốt được tinh thần! Sự bệ rạc của giới thanh niên thiên tả miền Nam sau 20 năm chỉ chứng tỏ một điều: vốn dĩ họ chỉ có tiếng mà không có miếng, chỉ có cái vỏ mà thiếu thực chất.

Nếu so với những người đồng trang lứa, nhưng đã cưỡng lại sự quyến rũ của chủ nghĩa CS hư vô, phải nói lớp thanh niên thiên tả miền Nam của thập niên 60s đã thua xa về cả bản lĩnh lẫn ý chí. Đó cũng là sự khác biệt giữ lý tưởng thật và lý tưởng giả.

Ngay lúc này là cơ hội cuối cùng cho lớp thành niên ‘thiên tả’ của miền Nam, hiện tại đang ở lứa tuổi 60, đứng lên làm cuộc cách mạng bản thân và để cứu dân tộc, chuộc lại những sai lầm của thời xưa. Nhưng cho đến nay, tôi chưa thấy một dấu hiệu nào khả dĩ hy vọng họ có ý định làm chuyện đó… Có lẽ, giấc mơ của họ là có thể biến mất khỏi trần gian một cách yên ổn, tốt hơn là không ai để ý đến họ nữa… bây giờ cũng như mãi mãi về sau…”


Nói gọn lại, và nói cách khác (bỗ bã hơn chút xíu) là họ đã bị thiến hết trơn rồi. Chấm hết.

Tưởng Năng Tiến.
(*) Chúng tôi sẽ có bài viết riêng về nhà thơ Trần Vàng Sao, vào tuần lễ tới, cũng trên diễn đàn này.



Lữ Phương - Lịch sử thử nhìn lại


Lữ Phương

Các vấn đề được đề nghị nhìn lại ở đây đều xoay quanh hai nhu cầu liên hệ chặt chẽ với nhau trong lịch sử hiện đại của Việt Nam – một “hệ vấn đề” theo cách nói của Nguyễn Kiến Giang – đó là độc lập dân tộc và canh tân xã hội (Nguyễn Kiến Giang: “Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam”, talawas.org, 14.4.2006). “Hệ vấn đề” này hiện nay vẫn còn đè nặng lên số phận đất nước, nhưng xét từ cội nguồn, nó đã bắt đầu từ khi Việt Nam bị thực dân Pháp, một ngoại bang xa lạ, từ thế giới phương Tây đến xâm lược và thống trị, khác hẳn với kẻ xâm lược cũ đến từ phương Bắc quá quen biết từ mấy nghìn năm. Vì thế, như một nghịch lý nhưng là hiện thực, có thể nói rằng quá trình thức tỉnh để sinh tồn của Việt Nam đã bắt đầu từ cuộc đối đầu xương máu đó, để từ đó đặt những bước chân đầu tiên vào thời hiện đại đầy sóng gió, bất trắc. Với ý nghĩa là một cuộc thúc đẩy mò mẫm không tự sinh nhưng lại là tất yếu cho việc hình thành một ý thức mới về lịch sử.



1.
Tuy thời thế đã chuyển biến dữ dội, nhưng do xã hội cổ truyền Việt Nam xây dựng trên mô hình Trung Hoa phong kiến, quen chìm đắm trong cách nhìn nhận thế giới dựa trên hệ thống giá trị tiền hiện đại, nên sự đan cài khắng khít giữa hai vấn đề nói trên chưa được thế hệ những nhà yêu nước chống thực dân buổi ban đầu nhận thức đầy đủ. Chỉ khi phương pháp đấu tranh cũ tỏ ra bất lực, mà kết quả là vô vọng, thì thế hệ những nhà yêu nước kế tiếp mới nhận ra được lý do thất bại của cha anh: thực dân phương Tây không cùng tầm cỡ với người láng giềng phương Bắc “đồng văn” mà là sức mạnh của một hình thái phát triển xã hội đã vượt khỏi chúng ta bằng cả một thời đại, vì đó không thể chiến thắng nó bằng cách huy động vốn liếng cũ, dù dựa trên một lòng yêu nước nồng nàn. Một nhận thức mới cũng đã nẩy sinh từ đó, không nhất quán, rõ rệt nhưng dần dần hình thành với những nét chính sau đây: muốn đánh đổ chủ nghĩa thực dân giành lại độc lập cho đất nước, tất yếu phải hình dung được một thể chế đưa được đất nước phát triển cùng thế giới hiện đại mà nội dung chủ yếu của nó là công nghiệp hoá và dân chủ hoá với những hệ quả về tư duy mà quá trình này mang đến. Mối quan hệ giữa hai vấn đề ấy từ đó đã trở thành cương lĩnh của các phong trào yêu nước về sau: công cuộc giải phóng dân tộc phải mang chở trong bản thân một quá trình canh tân xã hội, làm mới tinh thần.
Đây cũng là các vấn đề mà các quốc gia châu Á phải đối mặt trước sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng do nội lực của Việt Nam (cũng như của nhiều nước bấy giờ) thiếu hẳn những nhân tố nội sinh về văn hoá để tự canh tân, dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về đường lối lãnh đạo, nên lớp người yêu nước của thế hệ mới đều nhất loạt đề xuất phương pháp đi ra ngoài để cầu viện hoặc cần đến một kích động của một hệ thống khác để tư duy của Việt Nam chuyển biến. Phan Châu Trinh hướng về những giá trị tích cực của ngay nước Pháp mà thực dân đã nhân danh để “khai hoá” Việt Nam. Phan Bội Châu quay sang nhờ sự giúp đỡ của nước Nhật đã hoàn thành sớm cuộc canh tân. Nguyễn Ái Quốc lại hướng về nước Nga với viễn cảnh cuộc cách mạng đem lại quyền làm chủ cho những người lao động. Xét về một khía cạnh nào đó, đây chính là điều hay vì là một cuộc hội nhập về tư tưởng có tác dụng phá vỡ bức tường tù hãm của một xã hội khép kín: lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Việt Nam đã có điều kiện để thấy thế giới rộng lớn hơn nhiều lần cái chân trời Trung Hoa mà mình tưởng rằng đó là trung tâm của vũ trụ.

Nhưng tính chất đa phương phức tạp và mới mẻ của thế giới đó cũng đã là nguồn gốc sinh ra nhiều khác biệt trong hàng ngũ những người Việt Nam yêu nước mà mở đầu là cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu. Cần chú ý rằng ở đây không có vấn đề về tình tự yêu nước, cũng không có bất đồng về sự cần thiết phải canh tân hay không, mà chỉ là sự biện giải khác nhau về các phương pháp đặt ra trong tranh đấu, cụ thể là vào thời điểm bấy giờ, giữa hai vấn đề độc lập và canh tân phải ưu tiên cho vấn đề nào, nhu cầu về dân chủ ở Việt Nam phải đặt ra thế nào trước tình hình yếu kém và bị đô hộ của đất nước, và trong một xã hội đang chuyển mình khó khăn có nên đương đầu trực tiếp với thực dân bằng bạo lực hay không.
Về Phan Châu Trinh, chúng ta đều nhớ những đề xuất táo bạo của ông: không dùng bạo lực chống đối mà ưu tiên cho dân chủ hoá, nâng cao dân trí theo văn minh Tây Âu và để thực hiện nhiệm vụ đó, không cần nhờ vả các nước ngoài xa lạ, mà nên yêu cầu chính quyền thực dân cho tiến hành những cải cách. Những ý kiến của Phan Châu Trinh đã đụng chạm đến tận nền tảng xã hội Việt Nam truyền thống, làm nổi bật lên sự đối lập giữa hai thế giới quan, một phát triển, văn minh, năng động và một chậm tiến, lạc hậu, bưng bít. Dưới những chuẩn mực của các xã hội phát triển tập trung nơi nền văn minh phương Tây, Phan Châu Trinh đã vạch trần một cách không thương tiếc căn bệnh trầm kha của con người Việt Nam thời phong kiến, hủ bại, sùng bái quá khứ, sùng bái Trung Hoa, và cho rằng nếu không biết tập trung tẩy trừ cho hết những tác nhân gây nên căn bệnh ấy mà cứ lao vào chiến đấu bằng bạo lực, kết quả nếu không vô vọng thì dù cho có chiến thắng cuộc chiến thắng cũng vô nghĩa.

Chúng ta cũng biết những ý kiến trên đây có nhiều điều không được Phan Bội Châu hoàn toàn tán đồng. Thí dụ nổi bật nhất là vấn đề dân chủ được Phan Châu Trinh coi là toa thuốc cứu nước vạn năng, nhưng đối với Phan Bội Châu lại không thiết thực bao nhiêu, đơn giản chỉ vì giải pháp ấy thiếu đi một cái nền nâng đỡ mà không có cái nền đó thì dân chủ chỉ là hư vô, không có chỗ tựa. Nước đã mất thì dân không còn. “Dân không còn nữa, mà chủ với ai?” (Phan Bội Châu: “Thư gửi Phan Châu Trinh”1907, trong Phan Bội Châu toàn tập, Tập 2, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1990, tr. 23).

Chưa kể đến việc thực hiện lại phải đặt quá nhiều kỳ vọng vào thiện chí của chính quyền thực dân, và điều đó đã được Trần Đình Hượu một nhà nghiên cứu sau này cho là không thích hợp:
“Phan Châu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ – dù là do thực dân nắm giữ – để quét sạch những rác rưởi thối tha đó (…). Do ảnh hưởng sách vở, ông tin tinh thần “yêu giặc như bạn” của người Pháp, tin “Nã Phá Luân là người sứ giả Trời sai xuống rắc cái hoa tự do” cho Châu Âu. Ông tưởng thực tế cũng giống như trong sách vở, tưởng thực dân cũng tôn trọng tinh thần Cách mạng 1789, sợ hãi không đám vi phạm nó!” (Trần Đình Hượu: Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Chương III, Mục III, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1988).

Sự khác nhau giữa Phan Châu Trinh với Phan Bội Châu là quá cách biệt: một bên “dựa Pháp đánh đổ vua” còn một bên “bài Pháp phục Việt”, chủ trương của Phan Châu Trinh rất cấp tiến nhưng không tránh khỏi ít nhiều mộng tưởng, trong khi đó thì chương trình của Phan Bội Châu, tuy nấn ná hoài cổ nhưng lại có vẻ gần thực tế hơn. Trật tự tam cương ngũ thường vẫn còn là tơ tưởng của nhiều người, bây giờ không phục hồi lại như cũ mà nên noi gương một số nước chuyển sang thể chế quân chủ lập hiến. Lực lượng vũ trang của phong trào Cần vương sau những thất bại thảm hại vẫn còn những tàn dư có thể tập hợp lại phục vụ cho ngọn cờ canh tân do một lớp thanh niên mới đi du học từ Nhật về lãnh đạo.

Nhưng cuộc vận động của ông không tiến triển được thêm bước nào, tất cả đã cũng trở thành ảo tưởng không kém, do Nhật Bản câu kết với thực dân Pháp chận đứng mọi chương trình của ông. Cuối cùng nhà chí sĩ bị trục xuất khỏi Nhật, phải chuyển sang Trung quốc; 1912 lập Việt Nam Quang Phục Hội để tiếp tục hoạt động, đến 1924 mô phỏng Quốc Dân Đảng của Trung Hoa (do Tống Giáo Nhân, một đồng chí của Tôn Dật Tiên thành lập năm 1912), đổi Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Từ quân chủ lập hiến chuyển hẳn sang cộng hoà nhưng tôn chỉ đấu tranh của Phan Bội Châu vẫn như cũ: dùng bạo động gây tiếng vang và tạo sức ép với chính quyền thực dân.

Công việc đang dự định thì giữa năm 1925, ông bị Pháp bắt, bị đưa về Việt Nam kết án và an trí ở Huế, tổ chức mới vừa thành lập cũng tan rã. Nhưng tinh thần của cuộc tranh đấu mà ông phát khởi vẫn được nhiều tổ chức chính trị khác kế thừa, hoặc trong nước hoặc lưu vong, tất cả đều có thiên hướng dùng bạo lực khuấy động trật tự thực dân bằng những cuộc ám sát, ném bom, nổi dậy… thể hiện qua hoạt động của những đảng phái mà sau này người ta thường gọi là “dân tộc chủ nghĩa”, “quốc gia”, “không cộng sản” như Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học, Việt Nam Cách mệnh Đồng Minh hội của Nguyễn Hải Thần, v.v. hầu hết đều hướng về lý thuyết “tam dân” của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi làm nguồn cảm hứng đấu tranh và tổ chức.

Phương thức tranh đấu đó khác hẳn với chủ trương của Phan Châu Trinh được kế thừa và phát triển thành các xu hướng hoạt động nâng cao dân trí bằng những chương trình văn hoá ở các thành thị, hoặc qua các đảng phái chính trị thành lập công khai, chủ trương vận động thay đổi thực tế theo lối cải lương dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân. Chúng ta hãy đọc ý kiến sau đây của nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu để hiểu thêm ý nghĩa của nhận xét đó:
“Ở vào thời điểm xuất hiện, tư tưởng cải cách dân chủ của Phan Châu Trinh là yêu nước, chưa thuộc xu hướng cải lương. Ý đồ của ông là “cùng với nhân nhân, chí sĩ ba kỳ thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đông tây sao mà chẳng vỗ nên bộp” (Thư Phan gửi cho Nguyễn Ái Quốc năm 1922). Lúc đó giai cấp tư sản chưa thành một lực lượng, nếu tán thành các chủ trương tư sản hoá thì cũng chỉ là với tư cách quần chúng đi theo các nhà khoa bảng. Lúc đầu thực dân tưởng có thể lợi dụng chủ trương cải cách đề làm đối trọng với phong trào bạo động chống Pháp, gần gũi với Trung Quốc, Nhật Bản. Khi thấy quần chúng đông đảo, thật sự thiết tha với độc lập và dân chủ tham gia, lái phong trào sang cách mạng thực sự thì thực dân Pháp mới can thiệp vừa bắt giam những người yêu nước cầm đầu, vừa tổ chức trường Quy thức, ban Tu thư, hội Khai trí tiến đức, cho ra báo Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí... đề xướng con đường Pháp Việt đề huề, hợp với giai cấp tư sản vừa phát đạt trước sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Đó là chủ nghĩa cải lương. Phan Châu Trinh cũng như các nhà yêu nước khác chống lại chủ trương đó. Nhưng trong tư tưởng “không bạo động, bạo động thì chết” của ông lại có chỗ cho những người thân Pháp và sợ chết dựa vào để chống phong trào yêu nước và cách mạng, biện hộ cho chủ nghĩa cải lương”. (Trần Đình Hượu: như trên)2.

Có một xu hướng khác xuất phát từ mảnh đất đấu tranh nói trên nhưng cuối cùng đã chuyển sang một con đường mới mẻ hoàn toàn: đó là xu hướng cộng sản do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng. Nguyễn Ái Quốc là người hợp tác chặt chẽ với Phan Châu Trinh khi mới bắt đầu gia nhập đời sống chính trị ở Pháp. Chính người thanh niên này đã cùng nhóm Phan Châu Trinh thảo ra “Yêu sách của nhân dân An Nam” (còn gọi là “Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam”) gồm 8 điểm, tự tay gửi đến hoà hội Versailles (1919) yêu cầu thực thi những đề xuất của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson cải cách tình hình chính trị ở các nước thuộc địa, trong đó có những thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á, nhưng chờ đợi không thấy kết quả gì, nên ngả sang con đường mới với mong mỏi tìm được một lực lượng bên ngoài có khả năng giúp được Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của thực dân một cách thiết thực và hiệu nghiệm hơn (Xem Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, trong “Đặc trang Lữ Phương”, Viet-Studies).

Lực lượng mới này tuy được gọi chung là “cộng sản” lấy học thuyết Marx làm kim chỉ nam, thống nhất trong việc chống đế quốc tư bản, xây dựng nên một xã hội tương lai không còn cảnh người bóc lột người, nhưng trong thực tế học thuyết đó lại có nhiều biến dạng với nhiều trường phái, cách mạng có, cải lương có, tranh luận nhau bất phân thắng bại. Bây giờ chúng ta biết rõ lý luận mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận thuộc trường phái gọi là “Marx-Lenin”, được những nhà nghiên cứu phân tích như một thứ học thuyết đặc thù về Marx (vốn là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản phương Tây) do Lenin giải thích lại để vận dụng vào việc chống tư bản và xây dựng xã hội mới cho những nước phụ thuộc và thuộc địa, nơi chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển.
Tuy do Đệ Tam quốc tế chỉ đạo dưới sự chi phối của Liên Xô, nhưng qua các Đại hội, qua sự khác biệt về quyền lợi của từng quốc gia, đường lối không phải lúc nào cũng thống nhất, vì đó cũng gây ra chia rẽ, công kích nhau rất căng thẳng. Hồi mới tập tễnh làm chính trị, Nguyễn Ái Quốc không hiểu hết lý luận và những phức tạp của nó nhưng ông vẫn nhanh chóng chấp nhận vì thấy Đệ tam Quốc tế ủng hộ rất tích cực phong trào giải phóng dân tộc, chứ không thờ ơ như những thế lực quốc tế khác. Đây là điểm quan trọng xuyên suốt tiểu sử chính trị của ông: vấn đề giải phóng dân tộc phải được xem là mối quan tâm hàng đầu bên cạnh những vấn đề khác của cách mạng vô sản. Vì thế đặt trong bối cảnh đấu tranh của Việt Nam vào tiền bán thế kỷ 20, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam theo xu hướng của Nguyễn Ái Quốc không khác gì bao nhiêu những tổ chức yêu nước có nội dung canh tân khác.

Đường lối khái quát do Nguyễn Ái Quốc phác hoạ là vào tháng 2 năm 1930 khi ông hợp nhất được các phe phái cộng sản đang xâu xé lẫn nhau, đường lối này – không lâu sau đó bị xu hướng quá khích trong đảng (đại biểu cho Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 6, năm 1928) đem ra chỉ trích nặng nề khiến ông bị giữ lại ở Liên Xô suốt 7 năm, đến 1938 mới được phép trở ra hoạt động lại – nội dung thật sự chỉ là đường lối mà các cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở những nước thuộc địa hoặc phụ thuộc chủ nghĩa thực dân trên thế giới vạch ra: chống đế quốc để giải phóng dân tộc, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng cùng với các quyền tự do dân sự cho một xã hội công dân độc lập.

Như vậy là trong hai vấn đề chống xâm lược và canh tân xã hội, vấn đề thứ nhất đã được Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng ưu tiên, chính diện, không khác gì bao nhiêu với chủ trương của Phan Bội Châu (trong vấn đề đó). Việc sử dụng bạo lực mà Phan Bội Châu đặt ra trong tranh đấu thì được phát triển theo quan điểm cách mạng của đông đảo quần chúng (dù dưới hình thức khởi nghĩa hay chiến tranh) và được kết hợp với nhiều phương thức đấu tranh khác (chính trị, văn hoá…), công khai/bí mật, ôn hoà/bạo lực tuỳ theo tình thế mà ứng biến, chứ không chỉ loay hoay trong những cuộc bạo động gây tiếng vang hoặc chỉ giới hạn cuộc vận động vào từng lớp bên trên như nhiều đảng phái khác.Tính chất dân chủ mà phong trào cộng sản hay nói đến đã được thể hiện qua những biện pháp vận động rộng rãi này.

Những mục tiêu đó đã là cơ sở để Đảng Cộng sản có thể hợp tác với những đảng chính trị theo chủ nghĩa dân tộc khác. 1925, từ Nga sang Trung quốc hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã có quan hệ tốt với Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm… là những người đấu tranh chống thực dân theo đường lối Quốc Dân Đảng của Tôn Trung Sơn, lãnh tụ cuộc Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc. Ngay cả khi thành lập chính phủ lâm thời năm 1946, vẫn có nhiều thành phần của phe “quốc gia”, đối lập về chính kiến, từ Trung Quốc về nước chia quyền như Nguyễn Hải Thần… trong Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh… trong Việt Nam Quốc Dân Đảng … Vì lúc bấy giờ cuộc liên minh giữa các cường quốc (trong đó có Liên Xô) vẫn còn hiệu lực để thực hiện cuộc tấn công cuối cùng đè bẹp chủ nghĩa phát xít và thanh toán tàn dư của nó, nên vấn đề quốc/cộng ở Việt Nam vẫn chưa bùng nổ. Và đó cũng là nguyên nhân làm cho cuộc khởi nghĩa 1945 thành công dễ dàng, trong đó có việc khai thác chính xác kết quả của liên minh chống phát xít trên thế giới khiến Nhật đầu hàng.

Nhưng tất cả đều đảo ngược khi Chiến tranh Thế giới 2 vừa chấm dứt, cho phép quân Tưởng Giới Thạch từ phía Bắc, quân Anh từ phía Nam tràn vào giải giới quân Nhật, tạo điều kiện cho thực dân Pháp giành lại quyền lực đã bị sự chiếm đóng của Nhật vô hiệu hoá từ 1940. Sách lược liên hiệp các thành phần khác nhau thể hiện trong chính phủ lâm thời, trước sự hiện diện của các thế lực quốc tế chống cộng sản và đòi hỏi phục hồi vị thế của thực dân Pháp, kéo dài được một thời gian ngắn ngủi, đã đi đến chỗ tan vỡ hoàn toàn (sự kiện phố Ôn Như Hầu tháng 7.1946). Sau một thời gian thương lượng tìm một giải pháp hoà bình với Pháp không xong, chính phủ Hồ Chí Minh (tên mới của Nguyễn Ái Quốc khi ra công khai) đã chủ trương rút lui vào bưng biền kháng chiến. Cuộc liên minh chống phát-xít giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây cũng hạ màn, cuối cùng dẫn đến cuộc Chiến tranh Lạnh do Mỹ và Liên Xô cầm đầu, phân chia thế giới thành hai phe theo hai đường lối, hai ý thức hệ đối lập nhau gọi là tư bản và cộng sản.

Thật sự thì Chiến tranh Lạnh đã manh nha trước khi Chiến tranh Thế giới 2 chấm dứt do nhiều bất đồng của các cường quốc phương Tây với Liên Xô, nhưng phải đợi tiếng súng im đi, mới bộc lộ rõ hơn, trong việc phân chia vùng ảnh hưởng và chiếm đóng giữa hai bên, cùng với việc Mỹ viện trợ tái thiết một số nước châu Âu để không rơi vào tay cộng sản, từ đó hình thành học thuyết gọi là “be bờ” (containment) “ngăn chặn làn sóng đỏ” của tổng thống Mỹ Truman năm 1947, khởi đầu từ châu Âu rồi lan khắp thế giới. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của Việt Nam cũng bị hút vào ngay sau cách mạng 1945, khi Pháp được Mỹ yểm trợ tái lập chế độ thuộc địa. Sự can thiệp của Mỹ càng ngày càng sâu hơn và mạnh mẽ hơn vào Việt Nam khi Mao Trạch Đông đẩy Tưởng Giới Thạch ra biển vào năm 1949 để sau đó đụng độ trực tiếp với Mỹ trong chiến tranh Triều tiên (1950). Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh không có cách nào khác là ngả hẳn về “phe xã hội chủ nghĩa” nhờ chi viện, trong đó Trung Quốc được Stalin giao cho vai trò trực tiếp, để tiếp tục cuộc chiến đấu của ông.

Trung Quốc bấy giờ vẫn liên minh với Liên Xô, nên cũng hết sức giúp đỡ Việt Nam, nhờ đó Việt Nam tạo ra một chiến thắng cuối cùng tại lòng chảo Điện Biên ác liệt. Nhưng chính sự giúp đỡ dần dà của Trung Quốc đưa đến chiến thắng quyết định này đã đẩy Việt Nam vào vòng phụ thuộc “người anh em” của mình hết sức nặng nề. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc tuy bên ngoài danh nghĩa là những nước thuộc cùng một chiến tuyến chống đế quốc, chia sẻ cùng một ý thức hệ quốc tế vô sản, nhưng quyết định chính sách đối ngoại của hai bên vẫn là những quyền lợi thiết thân của một quốc gia và đối với Việt Nam thì Trung Quốc đương nhiên bao giờ cũng là một “đại ca”.

Nhiều tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết khi được mời tham dự hoà hội Genève 1954, vừa chiếm được quyền lực trên lục địa, Trung Quốc đã thông qua việc dàn xếp một cách bất lợi cho Việt Nam để khẳng định sự hiện diện của mình trên chính trường quốc tế. Khi tiếp tục giúp Việt Nam về sau, Trung Quốc vẫn xem Việt Nam như một công cụ để sử dụng vào lúc thích hợp. Theo dư luận trong Đảng, Hồ Chí Minh không phải không biết điều này nhưng mọi thứ đã an bài vì với ông không có gì quan trọng bằng sự đoàn kết “bầu bạn” khắp nơi để giành lại độc lập từ sự thống trị của thực dân. Không biết ông có lường được hết hậu quả hay không, nhưng thực tế cho biết rõ là càng dựa vào “phe xã hội chủ nghĩa” để chống thực dân thì khái niệm này càng ngày càng mất đi ý nghĩa phổ quát mà ông đã hình dung khi lựa chọn để mang những thuộc tính riêng biệt và cụ thể: một mô hình “xã hội chủ nghĩa” đặc trưng mà Mao Trạch Đông đã sáng tạo cho Trung Quốc.

Vì thế, theo một nghĩa nào đó cũng có thể coi sự thành công của cách mạng cộng sản ở Việt Nam chính là kết quả của cuộc nội chiến ở Trung Quốc: nếu Mao Trạch Đông không đánh bại được Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc thì có lẽ tình hình sẽ hoàn toàn có lợi cho phe thân Tưởng nằm phục lâu năm ở đây và số phận của Việt Nam cũng vì đó mà có thể khác đi rất nhiều. Nhưng những gì diễn ra trong lịch sử đã không cho phép chữ nếu này tồn tại. Với sự cận kề về địa lý, phụ thuộc về văn hoá truyền thống, huyễn hoặc về ý thức hệ, dựa vào Mao Trạch Đông để chiến thắng thực dân Pháp, Việt Nam rất khó thoát khỏi sự thao túng của chủ nghĩa cộng sản mao-ít.

3.
Như vậy là từ việc cùng tồn tại chung, qua nhiều lần hợp tác, phân hoá, với nhiều xu hướng chính trị yêu nước khác, phong trào cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo ngày càng chiếm được vai trò chủ đạo trong công cuộc chống thực dân giành chủ quyền cho dân tộc, nhưng ý nghĩa của nó cũng ngày càng phức tạp, không còn đơn giản như lúc ban đầu: điều này đã thể hiện rõ rệt qua hai giai đoạn khác nhau, như chúng ta đã biết, trong quá trình tranh đấu của nó.

Giai đoạn thứ nhất: từ ngày thành lập đến cuộc khởi nghĩa 1945 thành công, thiết lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong giai đoạn này, cương lĩnh tranh đấu tuy do Đảng đề xuất nhưng nội dung chỉ dừng lại ở cuộc cách mạng tư sản dân quyền theo kiểu Tôn Trung Sơn. Do cương lĩnh có nội dung đó, dù khác nhau hoặc đối lập nhau về tư tưởng, những người cộng sản và các đảng phái phi cộng sản vẫn có thể hợp tác với nhau để hành động chung. Tình hình thế giới thuận lợi cho sự hợp tác đó vì trước hiểm hoạ phát-xít, đã có sự liên minh giữa các cường quốc để chống lại.

Sự hoàn tất của cuộc khởi nghĩa 1945 ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh đó với một ghi nhận quan trọng cần được nhấn mạnh: đó là một cuộc cách mạng hoàn toàn tự lực của Việt Nam, không hề có sự giúp đỡ trực tiếp của Đảng Cộng sản Liên Xô lẫn Đảng Cộng sản Trung quốc. Nội dung dân tộc và dân chủ trong đường lối đấu tranh tự lực của của Đảng Cộng sản trong giai đoạn này đã thể hiện rất rõ trong “Tuyên ngôn độc lập” và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 1946 như một cột mốc mang tính bản lề để đất nước vượt qua xã hội cổ truyền, hội nhập thế giới hiện đại và giải quyết những vấn đề căn bản cho một Việt Nam phát triển trong dân chủ mà lịch sử đã đặt ra từ đầu thế kỷ 20.

Giai đoạn hai: từ sau 1949 trở đi, khi cách mạng Trung Quốc thành công, do tình thế bất khả kháng phải dùng chiến tranh để bảo vệ thành quả đã đạt được trong cách mạng 1945, Hồ Chí Minh chuyển hẳn sang dựa dẫm Trung Quốc để chống thực dân. Tính chất dân tộc của cuộc tranh đấu đã bắt đầu nhuốm đậm màu ý thức hệ, không phải là ý thức hệ mác-xít nói chung mà là thứ đặc sản tinh thần mới của Trung Quốc mệnh danh là chủ nghĩa Mao, theo chân các đoàn cố vấn Trung Quốc cùng với súng đạn và lương thực tràn vào Việt Nam. Những cuộc đấu tố cải cách ruộng đất, những cuộc tẩy não tư tưởng diễn ra trong hàng ngũ cán bộ và quân đội ngay trong lúc chiến tranh chống Pháp đang tiếp diễn đã có tác dụng áp đặt cho Việt Nam một đường lối sẽ được khai triển toàn diện về sau này.

Vấn đề cộng sản và không cộng sản, trước đây nhạt nhoà trước nhu cầu chống thực dân, bây giờ đã trở thành tác nhân gây chia rẽ dân tộc, làm phân liệt cả hàng ngũ những người yêu nước chống Pháp, hoặc riêng biệt hoặc hợp tác với cộng sản, từ đó đã đưa cuộc đấu tranh của Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, trong giai đoạn này sự chiếm lĩnh độc tôn về quyền lực của một thành phần cục bộ đã được đem ra thay thế cho sự hợp tác giữa những thực thể riêng biệt trong một toàn phần.

Sự rạn nứt đó đã vỡ oà ra cùng với cuộc Chiến tranh Lạnh đang tăng cường độ ở châu Á. Nhân danh chủ nghĩa chống cộng, Mỹ can thiệp vào Việt Nam để giúp thực dân Pháp duy trì thuộc địa càng đẩy Việt Nam rơi sâu vào ảnh hưởng của Trung Quốc, thể hiện ngày càng quyết liệt qua cuộc xung đột giữa hai miền Nam/Bắc sau 1954. Cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc đã cản trở Việt Nam thống nhất trong hoà bình. Miền Nam biến thành tiền đồn của “thế giới tự do” để Mỹ thực hiện chính sách ngăn chặn sự bành trướng của phe cộng sản theo học thuyết domino.

Điều đó cũng giả định Việt Nam và Trung Quốc “tuy hai mà một”, cả hai đều muốn mở rộng chủ nghĩa cộng sản xuống toàn vùng Đông Nam Á. Giả định này không hoàn toàn vô lý nếu nhìn từ nội tại, vì miền Bắc Việt Nam đã thực hiện việc cải tạo xã hội theo mô hình Mao Trạch Đông, tiếp tục các chính sách đã tiếp nhận từ Trung Quốc khi còn kháng chiến: thực hiện “cải cách ruộng đất” để tước đoạt thành quả mà nông dân đã có được trong thời cách mạng dân tộc dân chủ, nhân danh một thứ lý thuyết không tưởng được cho là chân lý duy nhất để lãnh đạo, căn cứ vào đó thủ tiêu mọi hứa hẹn trước đây về quyền tự do tư tưởng cho trí thức và áp đặt lên đời sống một hình thái văn hoá chuyên chính ngu dân, lạc hậu.

Nhưng từ một góc nhìn rộng lớn hơn thì lập luận ấy chỉ là kết quả của suy diễn. Bấy giờ Trung quốc dù có muốn “xích hoá” Đông Nam Á thì cũng cũng không đủ sức, nếu có thì cũng chỉ xúi giục Việt Nam, nhưng chỉ trong giới hạn nào đó có lợi cho mình. Còn Việt Nam thì lại chỉ theo đuổi dự định thiết thân: trong khi quyết tâm chống Mỹ để thống nhất đất nước thì cũng cưỡng lại Trung Quốc, không chấp nhận kéo dài nhùng nhằng. Rốt cuộc mặc dù không vừa ý, nhưng Trung Quốc vẫn ủng hộ Việt Nam, ngoài việc muốn sử dụng Việt Nam như một công cụ, còn vẫn giữ chính sách thù địch với Mỹ do vấn đề Đài Loan và sau chiến tranh Triều Tiên. Nhưng khi sự tranh giành vị trí bá quyền với Liên Xô trong phong trào cộng sản quốc tế lên cao dẫn đến xung đột vũ trang, Trung Quốc đã xem Liên Xô như một “đế quốc xã hội”, nhanh chóng chuyển sang hợp tác với Mỹ để chống lại. Ngoài việc nắm lấy thời cơ để phân hoá kẻ thù, Mỹ còn muốn qua việc hợp tác này, nhờ Trung Quốc áp lực với Việt Nam hỗ trợ Mỹ trong giải pháp rút lui chủ động hơn khỏi cuộc sa lầy ở Đông Nam Á.

Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt Hoàng Sa của Việt Nam trong tay chế độ Sài gòn năm 1974, trước sự án binh bất động của Hạm đội 7 của Mỹ đang lảng vảng ngoài Biển Đông. Mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt khi Việt Nam bất chấp những cuộc đi đêm giữa Mỹ và Trung Quốc bất lợi cho mình, nhất quyết thực hiện việc thống nhất đất nước bằng quân sự. Sau đó không lâu khi Đặng Tiểu Bình chủ trương hiện đại hoá Trung Quốc bằng thủ đoạn “lòn trôn”, trắng trợn ve vãn Mỹ để du nhập khoa học và công nghệ thì Việt Nam đã được Trung Quốc sử dụng một lần nữa như một con chốt.
Để đối phó, thay vì nhanh chóng bình thường hoá quan hệ với Mỹ để hoá giải cuộc cờ, Việt Nam quá ảo tưởng về mình sau khi thắng Mỹ, lại đưa điều kiện bồi thường chiến tranh để đàm phán, không gặt hái được kết quả gì, cuối cùng để chống trả thái độ thù địch ngày càng hung hãn của Trung Quốc, đã phải ngả hẳn sang Liên Xô, với niềm xác tín rằng Liên Xô “xã hội chủ nghĩa” đích thực hơn. Sự thách thức ấy đã được Trung Quốc trả đũa bằng cách sử dụng Khmer Đỏ tăng cường khuấy phá biên giới phía Nam; khi Việt Nam chiếm đóng Campuchia để trừng trị, năm 1979 Trung Quốc đã vận động tranh thủ sự tán đồng của Mỹ, mở cuộc tấn công đánh phá tan tành một số tỉnh miền Bắc để “dạy” cho tên “côn đồ Việt Nam” một bài học.
Bị tổn thất nặng nề, không buộc được Việt Nam rút khỏi Campuchia ngay, nhưng Đặng Tiểu Bình cũng thành công trong việc làm cho Việt Nam bị cô lập và kiệt quệ trong một thời gian dài. Trong khi đem máu của binh sĩ hai nước ra chứng minh với Mỹ rằng mình không còn nằm trong phe cộng sản nữa (Việt Nam là một Cuba ở châu Á cần trừng trị), Trung Quốc đã nhận được từ Mỹ một món quà mà nội dung là một khoảng thời gian yên bình gần 30 năm để tiếp nhận công nghệ và khoa học phương Tây, cần thiết cho việc thực hiện chủ trương “bốn hiện đại hoá”, hy vọng thoát khỏi lạc hậu, mau chóng trở thành cường quốc. Còn Việt Nam thì sau cả chục năm trì trệ vì quá tin vào Liên Xô, đến khi Liên Xô sụp đổ, không biết bám víu vào ai để tồn tại như một chế độ chuyên chính nên nghe theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh lúc bấy giờ (1991) vội vã quay về với người bạn Trung Quốc để nối lại mối quan hệ “đồng chí tốt” đã có từ lâu.

4.
Ngày nay các cuộc chiến tranh chống các thế lực thực dân, đế quốc phương Tây coi như đã lui vào dĩ vãng. Cuộc Chiến tranh Lạnh giữa hai phe chia đôi thế giới cũng đã lụi tàn. Cương lĩnh gọi là “xây dựng chủ nghĩa xã hội” theo mô hình Stalin-Mao cũng đã tan vỡ theo sự sụp đổ của cái hệ thống quốc tế đã cổ xuý nó. Để tồn tại cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều phải thích ứng chuyển đổi đường lối, đường lối này thường được gọi là “chủ nghĩa Lenin-thị trường”, với những cải biến xa hơn về mặt lý luận: đuổi hàng hoá và thị trường ra khỏi sự phê phán của Marx về chủ nghĩa tư bản, nhưng vẫn lén lút bám chặt vào mấy chữ “chuyên chính vô sản” của ông về thời kỳ quá độ, cốt chỉ để duy trì cho được sự thống trị độc quyền vĩnh viễn của Đảng cộng sản đối với đời sống chính trị của đất nước. Nói cách khác là làm kinh tế thị trường nửa vời bằng một nhà nước độc tài tuyệt đối. Không có gì gọi là “chủ nghĩa xã hội” thật sự ở đây để phải bận tâm tranh cãi thêm về mấy chữ “định hướng” hay “tiến lên” đi theo nó cả.

Với đường lối nói trên, Đảng Cộng sản Việt Nam cố giữ thói quen nhún nhường đối với người láng giềng phương Bắc, hy vọng tạo ra một động lực mới và một không khí hoà bình để đuổi kịp nhịp phát triển của các nước trong khu vực. Nhưng kết quả lại không như mong muốn. Chính sách của Đặng Tiểu Bình, lấy Việt Nam làm con chốt thí để chiếm lòng tin của giới lãnh đạo Mỹ (dạy Việt Nam một bài học 1979), đồng thời quyết liệt dùng bàn tay sắt đập tan mọi ý hướng canh tân dân chủ hoá (sự kiện Thiên An Môn 1989), sau 30 năm thực hiện một thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước chuyên chế, nếu đã đưa được Trung Quốc lên thành một cường quốc thì cũng với những cố gắng sửa chữa sai lầm để thực hiện chính sách “đổi mới” đặt nền trên trấn áp chính trị, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam lại tạo ra những kết quả trái ngược. Theo chân Trung Quốc mở cửa chào đón chủ nghĩa tư bản quốc tế, cho phép giai tầng trung lưu nội địa hoạt động trở lại, sự lãnh đạo đó vẫn không đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, tụt hậu để “hoá rồng” mà vẫn chìm ngập trong vũng lầy nhược tiểu, thối nát, tầm nhìn không thoát khỏi những toan tính lợi ích bè phái trước mắt, vì đó đã đưa toàn xã hội vào cảnh chụp giật hỗn loạn, đất nước lệ thuộc bên ngoài nhiều mặt.

Trước tình hình rối ren ấy, mối quan hệ giữa Việt Nam với người bạn phương Bắc lại rẽ sang một khúc quanh đầy nguy hiểm: dựa vào những kết quả đạt được trong 30 năm phát triển, Trung Quốc đã tạo ra được sức mạnh đủ để mưu tính trở thành một siêu cường mới ở châu Á, thách thức và đi đến chỗ muốn thay thế vai trò bá quyền của Mỹ đã suy yếu trong những năm gần đây. Toan tính ấy mang tính hiện thực đến mức nào thì còn phải chờ xem, nhưng trước mắt Trung Quốc đã gieo rắc tham vọng đó khắp nơi bằng hàng loạt những biện pháp tham lam của một đế quốc không cần giấu mặt. Quan trọng nhất là đã tập trung tăng cường sức mạnh quân sự, dựa vào sức mạnh này, hăm doạ độc chiếm Biển Đông, khống chế vùng Đông Nam Á.
Riêng đối với Việt Nam âm mưu đó được thực hiện một cách toàn diện, vì từ vị trí địa chính của mình Việt Nam chứa đựng tiềm năng tiếp tục trở thành một cái nút chặn lộ trình đi xuống phía Nam của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán. Vì thế, ngoài việc liên tục quấy phá, cướp đoạt, lấn chiếm, bắn giết ngoài Biển Đông, Trung Quốc tìm cách xâm nhập vào nội bộ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, tình báo để thao túng, biến Việt Nam thành một quốc gia phên giậu, phụ thuộc để khai thác và sai khiến.

Một câu hỏi khắc nghiệt không thể không đặt ra: phải chăng không muốn nhưng một lần nữa người Việt Nam lại phải bắt đầu một cuộc đối kháng mới với kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mình, giống như cha ông chúng ta đã phải đương đầu từ hàng nghìn năm về trước? Phải chăng nói như một nhà nghiên cứu: mọi cuộc chiến đấu chống các đế quốc phương Tây để gìn giữ chủ quyền của Việt Nam đều trở nên “thứ yếu” so với cuộc đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán phương Bắc? (Marvin Ott: “Thế kẹt trước Trung Quốc: Bản lĩnh và sự khôn khéo của Việt Nam”, Nghiên cứu Biển Đông 1.6.2012). Dù cho thông tin hiện nay chưa cung cấp cho chúng ta đầy đủ yếu tố để trả lời các câu hỏi này bằng một khẳng định có tính chất đại chiến lược cho cả một thế kỷ, nhưng căn cứ vào những sự kiện đã diễn ra hơn 50 năm qua cho đến ngày nay, bất cứ người Việt Nam nào có chút ưu tư đều cảm thấy cái tai hoạ từ phương Bắc đang đè nặng lên số phận đất nước, ngày càng lộ rõ, ngày càng trắng trợn.

Trước tình hình nguy ngập nói trên, chúng ta đều trông đợi thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị từng dính líu quá sâu vào ý thức hệ mao-ít trong thời kỳ chống thực dân và hiện nay đang là đảng cầm quyền tự cho mình là người duy nhất chịu trách nhiệm trước dân tộc về mối đe doạ bành trướng của Trung quốc. Chúng ta hy vọng Đảng Cộng sản sẽ công bố đường lối của mình trước toàn dân, như trước đây đã từng công bố nhiều lần trước những biến cố quan trọng của đất nước. Trong khi chờ đợi, ở đây chúng ta chỉ căn cứ vào những gì đã trình bày ở trên để rút ra một số kết luận có tính chất hiển nhiên, dựa vào đó hình dung một chiến lược ứng phó có thể có cho dân tộc mà nội dung gồm những điều chủ yếu như sau:
* Ý thức hệ gọi là “xã hội chủ nghĩa” mà Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng trong thời kỳ chống xâm lược nếu có tác dụng tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài, khi đem ra thực hiện trong xây dựng đã hiện nguyên hình là một mô hình không tưởng chuyên chế, đi ngược lại mọi viễn cảnh canh tân trong dân chủ, không tạo đoàn kết mà chỉ gây chia rẽ dân tộc và đưa dân tộc vào con đường lệ thuộc tinh thần. Chủ nghĩa “Mác-Lênin” cơ sở xây dựng “chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam chỉ là một sản phẩm du nhập mang tính chất chính trị tình thế, có nội dung Stalin được Mao Trạch Đông Trung Quốc hoá.

* Trên thực tế, nhất là trên mặt quan hệ quốc tế, Đảng Cộng sản Trung quốc đã từ bỏ ý thức hệ gọi là “chủ nghĩa xã hội” từ lâu. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa hiện nay là quan hệ bình đẳng giữa hai quốc gia, không thể lấy quan hệ đồng nhất về ý thức hệ để xử lý các vấn đề có liên hệ đến quyền lợi của hai nước. Nếu sử dụng khái niệm này để quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam sẽ rơi vào cái bẫy tâm lí chiến gọi là “vì đại cuộc”do Trung Quốc giăng ra.

* Qua tất cả những diễn biến của lịch sử quan hệ giữa hai nước suốt cả nửa thế kỷ đã qua, Trung Quốc không lúc nào ngừng o ép Việt Nam dựa trên những lợi ích của một quốc gia theo chủ nghĩa bành trướng nước lớn, đến nay đã trở nên trắng trợn hơn bao giờ hết trong toan tính biến Việt Nam thành một thứ phên giậu, phụ thuộc, để sử dụng, khống chế. Không có gì gọi là “hữu nghị” hoặc “đồng chí tốt”, “láng giềng tốt” biểu hiện trong mối quan hệ ấy.

* Chỉ có một thể chể chính trị mạnh về mọi mặt, bên ngoài có chỗ dựa của sự đồng tình quốc tế, bên trong là một nhà nước có được sự hậu thuẫn của nhân dân, mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp ngăn chặn sự gây hấn của một Trung Quốc đang trở thành đế quốc. Vì vậy một đường lối ngăn chặn chủ nghĩa Đại Hán phương Bắc ngày nay tất yếu cũng phải trở về cội nguồn của cuộc đấu tranh chống thực dân từ đầu thế kỷ 20: chống xâm lược bên ngoài phải đi cùng với việc canh tân và dân chủ hoá xã hội bên trong. ***

Trong viễn cảnh hiện đại hoá, vấn đề ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng Đại Hán như vậy không đơn thuần chỉ là việc bảo vệ một cõi “Nam quốc sơn hà” như ông cha chúng ta đã làm trước đây: thực chất đó là việc phủ nhận một mô hình phát triển không những không đưa đất nước hội nhập vào thế giới hiện đại một cách đích thực mà còn đẩy dân tộc vào vòng lệ thuộc. Suốt một thời gian dài, vì nhu cầu bức thiết của công cuộc đấu tranh chống các hình thức thực dân phương Tây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị cuốn hút vào cái ý thức hệ ngoại lai đặc biệt đến từ phương Bắc đó, coi như một sự trợ giúp cần thiết mà không ý thức hết cũng như không lường hết được hậu quả trầm trọng và lâu dài của nó. Ngày nay trước nguy cơ chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang chuyển mình thành chủ nghĩa thực dân hiện đại, những người cộng sản không thể không tìm về giai đoạn đấu tranh trong tự lực và tự chủ của mình như một điểm tựa truyền thống phi-mao-ít để thoát khỏi sự không chế của nó, do đó cần thiết cũng phải nhìn lại các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực ý thức hệ, qua các giai đoạn đấu tranh khác nhau, một cách khách quan, đúng như đã diễn ra một thời trong lịch sử. 1.6.2012

L.P.
Tác giả trực tiếp gửi BVN 


_____________________________
Tham khảo:36 nhân sĩ, trí thức Việt Nam hiện ở nước ngoài: “Thư ngỏ gửi các nhà lãnh đạo Việt Nam về hiểm hoạ ngoại bang và sức mạnh dân tộc” (ngày 21.8.2011), Viet-Studies tháng 8.2011 
Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981
Brocheux, P.: “Những suy tưởng về Việt Nam”, Thời Đại Mới số 24, tháng 3.2012
Chanda, N.: Brother Enemy, The War after the War, Harcourt Brace Jovanovich, Publishers, San Diego New York London, 1986
Giáp Văn Dương: “Thoát Trung luận”, Blog Giápvăn, 13.8.2011
Kissinger, H.: On China, Chapter 13 “Touching the Tiger’s Buttocks, The Third Vietnam War”, The Penguin Press, Kindle Edition, 2011
Lữ Phương: Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh – Sự hình thành một chọn lựa, “Đặc trang Lữ Phương”, Viet-Sudies
Nguyễn Kiến Giang: “Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam” (LP sưu tầm, hiệu đính và giới thiệu), talawas.org, 14.4.2006
Nhiều người ký tên: “Kiến Nghị về Bảo Vệ và Phát Triển Đất Nước”, (10.7.2011) boxitvn.blogspot.com
Nhóm tác giả: “Ý kiến chúng tôi: Cải cách toàn diện để phát triển đất nước” (8.9.2011), Thời Đại Mới số 23, tháng 11.2011
Trần Đình Hượu: Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1988
Trần Quang Cơ: “Hồi ký” tháng 7.2005, Diễn Đàn 12.7.2008
Vũ Hồng Lâm: “Lịch sử quan hệ Việt-Trung nhìn từ góc độ đại chiến lược”, Thời Đại Mới số 2, tháng 7.2004
Vũ Quang Việt: “Phải chăng quan hệ Việt Nam với Trung Quốc còn mang tính bá chủ-chư hầu?”, Thời Đại Mới số 23, tháng 11.2001
Nguồn: Bauxite Việt Nam