Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012
LS. Trần Thanh Hiệp - Hành Sử Quyền Đối Lập Để Hình Thành Đối Lập ở Việt Nam
LS.
Trần Thanh Hiệp -
Cuộc
cách mạng dân chủ đã và đang diễn ra ở Bắc Phi và
Trung Đông có thể coi như là đợt sóng dân chủ hóa thứ
ba của nhân loại kể từ cuối thế kỷ XX và đầu thế
kỷ XXI. Đợt sóng này đã đánh dấu một chặng đường
mới của sự nghiệp của nhân loại xây dựng và hoàn
thiện thể chế dân chủ khởi đầu từ thế kỷ thứ V
trước Công Nguyên. Đồng thời nó còn mang đến cho những
tập thể người vào đầu thiên niên kỷ thứ ba rồi –
mà vẫn còn phải mang ách độc tài – những sự hỗ trợ
thiết yếu cả về ba mặt chính trị, pháp lý và quân sự
để bẻ gãy gông cùm của những thế lực cầm quyền
phản dân chủ. Sớm hay muộn thì gió xuân Bắc Phi Trung
Đông cũng sẽ thổi đến Việt Nam vì dân chủ là xu thế
của thời đại. Nhưng chính người dân Việt Nam phải
chứng tỏ có đủ ý chí và khả năng đánh bại độc
tài để đặt nền móng cho kiến trúc dân chủ. Do
đó nay đã đến lúc một lực lượng đối lập phải
cấp tốc thành hình và đột xuất trong lòng chế độ
đảng trị cộng sản hiện nay đang ra sức nắm giữ độc
quyền cai trị đất nước.
Dưới
đây là môt số nhận định – đã được nêu lên vào
một thời điểm đã qua nhưng vẫn còn giá trị thời sự
cao – về khả thế khai sinh ra lực lượng đối lập ấy
mà tình thế đòi hỏi.
Kết
hợp tranh đấu nhân quyền với tranh đấu dân chủ
Trước
tình hình trong nước có vẻ chớm bắt đầu ngột ngạt
trở lại. Tự cho rằng thế ngoại giao tạm thời đã
được củng cố đồng thời cũng để chặn đứng phong
trào đòi dân chủ bằng đường lối hòa bình đang thành
hình ở ngay trong lòng chế độ, nhà cầm quyền cộng sản
Việt Nam lại để lộ bộ mặt độc tài toàn trị mà ít
lâu nay họ cố che đậy.
Theo
tin của hãng thông tấn Reuter đánh đi từ Hà Nội, nhà
cầm quyền Việt Nam vừa chuẩn bị một cơ sở pháp lý
mới để cơ quan hành chánh, không cần dựa vào quyết
định của cơ quan tư pháp, được quyền “quản chế”
những ai mà công an liệt vào hạng “nguy hại cho an ninh
quốc gia” vì đã “làm mất trật tự xã hội”.
Độc
tài hiện nguyên hình
Cũng
vẫn theo nguồn tin trên thì cơ sở pháp lý ấy là một
“Nghị định” (Decree) của chính phủ. Trong khi chờ đợi
biết rõ ai là tác giả nghị định ấy, hãy tạm không
bàn tới tính hợp hiến hay không hợp hiến của nó. Vả
lại trong hệ thống pháp luật cộng sản, làm gì có thứ
bậc qui phạm (hiérarchie des normes) rõ ràng. Tuy miệng
quảng cáo rầm rộ cho cái gọi là “nhà nước pháp
quyền” (mập mờ đánh lận con đen với các loại Etat
de droit, Rechtsstaat, v.v… của dân chủ phương Tây) nhưng
trong thực tế những người cầm quyền cộng sản Việt
Nam vẫn bám lấy những nguyên lý chuyên chính vô sản là
nắm trọn trong tay tất cả mọi quyền hành để độc
đoán cai trị hơn cả vua chúa ngày xưa. “Đổi mới”,
“pháp quyền”, “dân chủ xã hội chủ nghĩa” loanh
quanh một hồi rồi đâu vẫn vào đó. Chính quyền ngày
nay, dù đã hội nhập vào thế giới văn minh, vẫn giống
như chính quyền trong rừng ngày trước, muốn bắt ai thì
bắt, muốn giam ai thì giam. Xưa thì nại cớ “chiến
tranh giải phóng”, nay thì viện lẽ “ổn định xã
hội”, “an ninh quốc gia”. Rút lại vẫn chỉ là những
thủ đoạn chuyên chế, độc tài, phát xít, xít ta lin nít
đã hoàn toàn lỗi thời. Những thủ đoạn kỳ quái, đảo
lộn, ngược đời kiểu “đêm giữa ban ngày”, đúng
như tựa đề cuốn hồi ký của một người đã may mắn
sống sót và ra thoát khỏi cái thế giới “đêm” ấy
để nói lên sự thật.
Vi
phạm nhân quyền, trước đã rõ nay càng rõ hơn
Nói theo kiểu bình dân, những người cộng sản khôn nhưng không ngoan! Họ tưởng lầm rằng mượn những từ hoa mỹ “an ninh quốc gia” để che đậy ý đồ độc tài toàn trị là có thể dễ dàng đánh lừa được dư luận. Nhưng thế giới văn minh ngày nay không phải là những mật khu ngày xưa. Ngày 24-9-1982, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tham gia hai Công ước quốc tế về các nhân quyền mà không có một dè dặt (réserve) nào.
Nói theo kiểu bình dân, những người cộng sản khôn nhưng không ngoan! Họ tưởng lầm rằng mượn những từ hoa mỹ “an ninh quốc gia” để che đậy ý đồ độc tài toàn trị là có thể dễ dàng đánh lừa được dư luận. Nhưng thế giới văn minh ngày nay không phải là những mật khu ngày xưa. Ngày 24-9-1982, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tham gia hai Công ước quốc tế về các nhân quyền mà không có một dè dặt (réserve) nào.
Việc
tham gia này có hiệu lực kể từ ngày 24-12-1982. Khác với
bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị (Pacte international
relatif aux droits civils et politiques) có hiệu lực như những
luật quốc tế ràng buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt
Nam là người đã tham gia. Công ước này đặt ra cho nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam nhiều nghĩa vụ phải thi
hành không thể nại cớ này cớ nọ để lẩn tránh, hay
xuyên tạc sang đoạt, giảm bớt hoặc hủy bỏ. Nói tổng
quát, tham gia Công ước này, nhà cầm quyền cộng sản
bắt buộc phải coi mỗi người dân là một “con người”
với đầy đủ nhân phẩm của nó nghĩa là có một loạt
quyền để có thể sống một đời sống tự do, bình
đẳng, dưới sự che chở của luật pháp. Căn cứ vào
Công ước nói trên mà xét, việc nhà cầm quyền cộng
sản quản chế công dân bằng biện pháp hành chính quả
là một vi phạm trầm trọng Công ước ấy.
Thật
vậy, điều 2 phần II của văn bản quốc tế này định
rằng:
“Mỗi
quốc gia thành viên của Công ước này cam kết tôn trọng
và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và
thẩm quyền pháp lý của mình các quyền đã được công
nhận trong Công ước này, không phân biệt chủng tộc,
màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc
mọi quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài
sản, dòng dõi hoặc các điều kiện khác”. Mặt khác,
điều 5 cũng của phần II, nói rõ rằng:
“1.
Không được phép giải thích bất kỳ một qui định nào
của công ước này để qua đó có hàm ý tạo cho một
quốc gia, một nhóm người hoặc một cá nhân có được
một quyền nào đó để tiến hành những công việc hoặc
hành động nhằm mục đích hủy bỏ bất kỳ quyền và
tự do nào được công nhận trong Công ước hoặc nhằm
giới hạn những quyền và tự do đó quá mức độ qui
định trong Công ước”.
“2.
Không được phép hạn chế hoặc hủy bỏ các quyền cơ
bản của con người đã được công nhận hoặc hiện tồn
tại ở một quốc gia thành viên của Công ước này trên
cơ sở luật, điều ước, các qui định pháp luật hoặc
tập quán với cớ là Công ước này không công nhận
những quyền ấy hoặc công nhận ở một mức độ thấp
hơn”.
Hai
điều 2 và 5 này không cho phép nhà cầm quyền cộng sản
tùy tiện đặt ra hay giải thích méo mó luật pháp để
xâm phạm nhân quyền của mỗi công dân dù các công dân
đó bất đồng chính kiến với người cộng sản, khác
tôn giáo với người cộng sản. Cộng sản lại cũng
không thể đưa ra chiêu bài “truyền thống dân tộc”
để thoái thác không thi hành những nghĩa vụ mà công ước
đã qui định như trên. (Tưởng cũng nên nói thêm là cộng
sản Việt Nam không thể đồng hóa mình với cộng sản
Trung Quốc vì Trung Cộng nại cớ không công nhận tư cách
đại diện của Trung Hoa Quốc Gia – năm 1966 đã ký vào
Công ước nên tự coi là không có nghĩa vụ thi hành Công
ước).
Nhà
cầm quyền cộng sản có thể nại lý do “an ninh quốc
gia” để xâm phạm một cách hợp pháp!” quyền
của các công dân nói khác đi, để đàn áp đối lập –
được không? Không được! Câu trả lời có thể dứt
khoát ngay như vậy.
Trước
hết, như điều 4 của Công ước đã qui định chỉ khi
nào có một “tình trạng khẩn cấp, đe dọa sự sống
còn của quốc gia” đã được ban bố thì mới có thể
đi ngược lại, nghĩa là ngưng thi hành những điều khoản
của Công ước. Đây không phải là trường hợp của
Việt Nam, trước mắt. Trong tương lai, Việt Nam cũng không
ở trong triển vọng bị lâm vào một tình trạng khẩn
cấp. Không có chiến tranh, không có thiên tai, v.v… đời
sống ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra một cách bình
thường. Tại sao phải ngưng thi hành Công ước?
Vả
lại ngay dù cho có “tình trạng khẩn cấp” chăng nữa,
nhà cầm quyền Việt Nam một mặt chỉ có thể lấy những
biện pháp bất thường nào “không trái với những nghĩa
vụ khác, xuất phát từ luật quốc tế và không chứa
đựng nội dung phân biệt đối xử về chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã
hội”, mặt khác cũng vẫn phải tôn trọng những nhân
quyền cơ bản đã được liệt kê trong điều 6, 7, 8 (các
đoạn l và 2), 11, 15, 16 và 18. Đó là những quyền
“được sống”, “không bị tra tấn… đối xử hoặc
bị áp dụng hình phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo
hoặc nhục hình…”, “không bị bắt làm nô lệ,… làm
nô dịch”, “không thể bị kết án phạm tội hình sự
vì một hành động hoặc bất hành động không phải là
tội phạm theo luật quốc gia hoặc luật quốc tế vào
thời gian xảy ra hành vi đó”, “tự do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo…”(1). Muốn xé rào để có cơ sở
pháp lý đàn áp đối lập, nhà cầm quyền cộng sản
phải vượt qua loạt khóa an toàn vừa kể.
Điều
quá hiển nhiên là nhà cầm quyền cộng sản khi ban hành
nghị định “quản chế” đã không vượt qua được
bất cứ khóa an toàn nào. Nhưng họ cứ tri tình dày xéo
lên những cam kết tuân thủ những qui phạm của Luật
quốc tế.
Như
vậy là những hành động vi phạm nhân quyền của nhà
cầm quyền cộng sản, trước đã rõ nay lại càng rõ
thêm. Không một luận cứ pháp lý nào có thể biện minh
cho những hành động vi phạm ấy. Vấn đề được đặt
ra cho những người dân chủ Việt Nam ở trong cũng như ở
ngoài nước, là phải đối phó cách nào cho có hiệu quả
với tập đoàn cầm quyền bất chấp luật pháp ấy?
Tăng
cường và nâng cao phẩm chất tranh đấu nhân quyền
Việc
tranh đấu chấm dứt bạo quyền là một vấn đề hết
sức phức tạp nhưng lại dễ bàn luận. Ai cũng có có
sẵn lập trường, có sẵn kế hoạch, chiến lược, chiến
thuật.
Ở
đây tuyệt đối không bàn suông, chỉ có một số nhận
định rất giới hạn vào phạm vi luật học và chỉ nhắm
vào hành động thực tế, cụ thể mà một số người
Việt ở ngoài nước có thể tiến hành. Đó là việc
tranh đấu nhân quyền.
Trong
những năm 80, dư luận người Việt ở ngoài nước hồi
hộp theo dõi tin tức vụ “kiện” cộng sản vi phạm
nhân quyền trước Liên Hiệp Quốc. Thật ra “kiện”
cũng chỉ là một cách nói – cường điệu – để diễn
tả công việc chống đối bằng luật pháp khi không có
cách chống đối nào khác. Thời gian qua đã cho thấy đi
“kiện” như vậy là đã đi đến đâu. Về điểm này,
thiết tưởng không nên quá khe khắt mà cũng đừng quá
dễ dãi. Công bình mà nói, không phải ai cũng có thể
trực tiếp lên tiếng trước diễn đàn của Liên Hiệp
Quốc.
Nhưng
mặt khác, không phải là cứ lên tiếng trước diễn đàn
ấy là giải quyết xong vấn đề chuyên chế tại Việt
Nam. Nếu chỉ cần có bấy nhiêu thôi thì những tiếng
nói của
một
số không nhiều người Việt Nam từng cất lên (trong số
đó có tác giả bài viết này) tại Mỹ, Áo, Thụy Sĩ,
v.v… để đọc những bản cáo trạng nghiêm khắc lên án
cộng sản, đã mang lại từ lâu dân chủ cho nước này
rồi! Thế mà bạo quyền chẳng những vẫn còn tại vị
mà lại ngày càng “trụ” vững trên ngôi chuyên chế.
Chẳng
lẽ vì vậy mà những người chống đối bạo quyền ấy
đành bó tay sao? Phải duyệt xét lại việc làm đã qua để
tìm những cách đối phó mới. Về điểm này, sẽ không
có nhiều giải pháp. Cũng lại phải đi “kiện” nữa
mà thôi, chữ “kiện” hiểu theo nghĩa thật rộng của
nó.
Sự
thực, đứng về mặt luật quốc tế mà nói, trong hiện
tình, người Việt Nam nạn nhân của bạo quyền cộng sản
không có một tố quyền nào trước diễn đàn Liên Hiệp
Quốc khả dĩ có thể mang lại cho mình những phán quyết
như loại phán quyết của tòa án. Tuy nhân quyền được
Liên Hiệp Quốc đề cao, được nhiều văn bản luật
quốc tế qui định và bảo vệ nhưng thủ tục để cho
các nạn nhân bị chà đạp nhân quyền khiếu nại lại
rất giới hạn và ít hiệu quả. Trong cơ chế của Liên
Hiệp Quốc có 5 cơ quan, với những thẩm quyền rộng hẹp
khác nhau, có thể thụ lý và giải quyết các vấn đề
nhân quyền. Đó là Hội Đồng Bảo An, Đại Hội Đồng
Liên Hiệp Quốc, Ủy Hội Nhân Quyền, Ủy Ban Nhân Quyền
và Cao Ủy Nhân Quyền(2). Hãy gạt ngay sang bên Hội Đồng
Bảo An và Đại Hội Đồng LHQ, vì hai cơ quan này ở
ngoài tầm vận động trong lúc này của người Việt Nam,
nạn nhân bạo quyền cộng sản. Cao Ủy Nhân Quyền, mới
thiết lập được hai ba năm nay, không coi vấn đề vi
phạm nhân quyền tại Việt Nam có giá trị ưu tiên. Trong
số hơn 30 quốc gia mà ông đã viếng thăm từ khi nhậm
chức, không thấy có nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa
Việt Nam. Ủy Ban Nhân Quyền là cơ quan mà Công ước quốc
tế về quyền dân sự chính trị lập ra để giải quyết
những vụ vi phạm nhân quyền trái với Công ước này.
Oái oăm thay, cộng sản Việt Nam tuy có tham gia Công ước
nhưng lại không tham gia Hiệp định thư thứ nhất phụ
đính Công ước này nên Ủy Ban không có thẩm quyền xét
khiếu nại của các nạn nhân Việt Nam. Chỉ còn Ủy Hội
Nhân Quyền với thủ tục gọi là “Thủ tục 1503″
(1503 là số thứ tự nghị quyết của Hội Đồng Kinh Tế
Xã Hội ngày 27-5-1970 qui định thủ tục xét đơn khiếu
nại về những sự vi phạm nhân quyền và những quyền
tự do cơ bản) là nơi độc nhất để các nạn nhân Việt
Nam mất nhân quyền có thể kêu cầu. Nhưng thủ tục hiếm
hoi này lại rất nhiêu khê vì không phải ai muốn kêu cầu
cũng được và muốn kêu cầu ra sao thì kêu. Nó đòi hỏi
một số điều kiện về hình thức cũng như về nội
dung đề hành sử (trong một dịp khác xin bàn kỹ hơn).
Cũng may là nước Việt Nam đã bị ghi vào sổ đen vì
những vi phạm nhân quyền (đây là công tranh đấu mấy
chục năm qua của những người Việt tị nạn cộng sản)
nên tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở Genève, tiếng nói
của những nạn nhân Việt Nam vẫn còn có cơ hội tiếp
tục cất lên.
Nếu
muốn dựa vào các Công ước quốc tế về nhân quyền để
tranh đấu cho nhân quyền thì trong tương lai phải biết
góp gió thành bão, nâng cao phẩm chất cuộc tranh đấu ấy
cho thích hợp với môi trường quốc tế chứ không phải
cho riêng “cộng đồng người việt hải ngoại”. Những
chiến sĩ dân chủ kiên cường trong nước đang bị đe
dọa trước mắt với nghị định “quản chế” mà bạo
quyền vừa ban hành. Những người dân chủ Việt Nam ở
ngoài nước cần tỏ và phải tỏ ra có khả năng ứng
cứu, yểm trợ người dân chủ ở trong nước. Kết hợp
được chặt chẽ hai cuộc tranh đấu này là sớm đặt
được nền móng cho một nước Việt Nam dân chủ trong
tương lai.
LS.
Trần Thanh Hiệp
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét