Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011
TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN
Nguyên tác Anh ngữ: Hoàng Văn Chí
Bản dịch: Mạc Định
Chương 8
DANH-SÁCH VIỆT-GIAN
Những người bị bắt và bị đấu tố trong cuộc "Ðấu tranh chính-trị" mà may mắn còn sống sót, thì bị đưa vào trại giam để công-an điều tra thêm. Vài tuần sau công-an tuyên bố là trong số những ngườI này quả có nhiều "Việt-gian" lợi hại, có chân trong một tổ chức bí mật, làm gián-điệp cho Pháp.
Trong năm 1951, nghĩa là hai năm về trước, Pháp có bỏ bom phá tan hệ thống dẫn-thủy nhập điền trong vùng Việt-minh kiểm-soát. Nhớ lại vụ oanh tạc này, Ðảng được dịp tuyên bố là chính những "Việt-gian" mà nhân dân đã "lột mặt" đã xui Pháp ném bom phá hủy các đập nông-giang. Ðảng còn nói rằng bọn họ đã vẽ địa-đồ các đập nước và các cầu cống và chuyển giao cho Pháp. Rõ ràng là một sự vô cùng phi-lý vì không có một người Việt-nam nào không hiểu rằng những cống và đập đó đều do Pháp xây-dựng và toàn bộ bản-đồ Việt-Nam và Ðông Dương đều do Pháp vẽ. Nói rằng Pháp quên không biết đập ngăn nước khổng lồ họ xây ngày trước bây giờ nằm vào chỗ nào và phải nhờ "Việt-gian" chỉ điểm mới nhớ ra thì cực kỳ khôi hài. Nhưng đối với cộng sản thì phi-lý không phải là một trở ngại cho tuyên truyền. Họ kinh nghiệm rằng đối với nông-dân chỉ việc nhắc đi nhắc lại một lý-luận thô sơ dễ hiểu thì dù phi-lý đến đâu cuối cùng nông dân cũng nhập tâm cho là thực. Ðặc biệt là nói về thực-dân Pháp và đế-quốc Mỹ thì kể hươu kể vượn thế nào cũng được, vì nhiều nông-dân suốt đời không hề thấy một người Pháp hoặc một người Mỹ. Một trung-đội trưởng Việt-Minh sau khi thắng trận Ðiện Biên Phủ về Hà-Nội hỏi dân thủ-đô có phải người Mỹ da đỏ hồng hào không. Ý hẳn anh ta chỉ nghe nói bên Mỹ có một chủng tộc thường gọi là Peaux Rouges. Ðối với trình độ kiến-thức như vậy thì dĩ-nhiên càng lý-luận giản-dị bao nhiêu, dân chúng càng ưa nghe bấy nhiêu.
Mỗi tỉnh đều đệ lên trung ương một danh sách những kẻ "phản động" và sửa soạn xử-án công khai. Trong mỗi danh sách đều có những "thành-phần điển-hình" : một địa-chủ giầu nhất, một vị hòa-thượng, một linh-mục, một vị khoa cử và một cựu quan lại.
Trong khi chờ phiên tòa xử thì các can-phạm phải điệu đi từ trại giam này đến trại giam khác, qua hết làng này sang làng khác, như kiểu một gánh "xiếc" mang thú dữ đi quảng cáo trước khi biểu diễn buổi đầu. Chân họ bị xiềng và tay họ bị trói bằng một chiếc thừng dài, buộc cánh tay người đầu đoàn cho tới cánh tay người cuối cùng. Họ khạng nạng đi giữa ban ngày, dưới mặt-trời tháng năm, tay bị xích nhưng cũng cố nâng xiềng khỏi mặt đất cho dễ đi. Tiếng xiềng chạm nhau kêu "leng keng" rất xa và rất rùng rợn vì là một thứ tiếng mà thiên hạ chưa từng nghe bao giờ.
Phiên tòa đã xếp đặt gần xong và các vị thẩm phán đã được cấp trên chỉ định thì bỗng nhiên có lệnh đình lại. Sau đó có tin đồn là các "cố vấn Trung-quốc" xét thấy danh sách phản động chưa được đầy đủ. Họ nói danh sách còn thiếu một loại đại phản-động mà bên Trung-quốc gọi là "Tư-sản Mại-bản". Theo lý-thuyết của ông Mao, một lý-thuyết mà các đồ-đệ của ông coi là một cống hiến vĩ-đại, giai-cấp tư sản ở các nước kém mở mang chia làm hai loại : tư-sản dân-tộc, tức là những người công-nghệ và tư-sản mại-bản tức là những người xuất-nhập cảng. Hai loại tư-sản này có hai thái-độ chính-trị khác nhau, vì cách thức kinh doanh của họ khác nhau.
Tư-sản dân-tộc hay công-nghệ bản-xứ chế-tạo hàng nội-hóa nên phải cạnh-tranh gắt gao với tư-sản ngoại-quốc. Vì vậy nên họ có tinh-thần yêu nước một phần nào, và sẵn sàng hợp tác với cộng-sản để tranh-đấu dành độc-lập. Cộng-sản để yên cho họ sống từ thời kỳ cải-cách ruộng đất cho đến thời kỳ hợp tác công-nghiệp. Trong khi ấy họ vẫn làm chủ nhà máy của họ, dưới sự kiểm soát nửa kín nửa hở của công-đoàn. Ở Trung-Hoa và ở Bắc-Việt chế-độ này được duy-trì trong hai năm.
Thành phần tư-sản mại-bản thì ngược lại sống nhờ vào tư-sản ngoại quốc nên không có mảy may tinh thần yêu nước. Quyền-lợi của họ bị ràng buộc vào quyền lợi của tư-sản ngoại-quốc nên họ chỉ là tay sai của đế-quốc. Vì vậy nên họ bị xếp là "Kẻ Thù Số Hai của Nhân Dân" (Ðịa-chủ là kẻ thù số Một). Nhưng muốn quy một người này là tư sản mại-bản, theo đúng nghĩa của ông Mao-Trạch-Ðông thì phải tìm thấy ở người ấy hai điểm. Một là tư-sản và hai là mại-bản, tức là buôn bán xuất-nhập cảng. Vì vậy nên khi Trung Ương bắt các ủy-ban tỉnh phải lập danh sách tư-sản mại-bản, ủy-ban tỉnh phải kê khai một số người trong địa-phương có thể tạm gọi là "tư-sản" và có buôn bán hàng ngoại-quốc. Nhưng kiếm được những người đầy đủ hai điều-kiện kể trên quả là một việc rất khó vì hồi ấy chẳng còn ai ở hậu-phương có thể tạm gọi là tư-sản mà xuất-nhập cảng cũng hoàn toàn không có. Từ trước Việt Nam vốn dĩ đã chẳng có bao nhiêu tư-sản, mà nếu có một vài người thì họ đều ở lại Hà-Nội với Pháp. Thật đúng như lời ông Mao, hạng người này quả là tay sai của tư-sản ngoại quốc và luôn luôn cấu kết với thực-dân đế-quốc. Một vài tư-sản vào loại kém, lúc đầu có chạy ra hậu-phương nhưng chỉ ít lâu sau họ cũng trở về thành. Chỉ có một số "phú-thương" chịu khó ở lại hậu-phương, thường khi vì lý do gia-đình hơn là kháng-chiến yêu nước, nhưng tất cả đều bị khánh-kiệt từ mấy năm trước. Vì ở hậu-phương thiếu hàng-hóa, thiếu giao thông và khả-năng tiêu-thụ của nhân-dân quá kém cỏi, nên họ chẳng kiếm chác được bao nhiêu. Lấy cớ là tránh nạn Pháp nhẩy dù, cứ ba hoặc sáu tháng một họ lại phải di chuyển tiệm buôn từ nơi này sang khác, phá nhà cũ làm nhà mới. Nạn lạm phát (một nghìn đồng năm 1955 trị giá bằng một đồng năm 1946) và cuối cùng là Thuế Công-thương-nghiệp đã khiến họ trở thành bàn tay trắng, buôn đi bán lại lấy công làm lãi.
Tuy nhiên việc tìm kiếm tư-sản cũng không khó là vì danh-từ "tư-sản" cũng như danh-từ "địa-chủ" hết sức co rãn. Một người sống "trên mức bình thường" cũng có thể tạm xếp vào loại tư-sản, vì chính-quyền có thể chứng minh trước dân chúng là quả họ có một "tư-sản" nào đó. Trái lại việc lùng kiếm những người mại-bản thì thật quả là khó. Những cố-vấn Trung-quốc thực-sự đã lầm to khi họ hạch sách bắt kiếm cho kỳ được tư-sản mại-bản. Có lẽ họ yên trí rằng ở Việt-nam loại người này cũng đông đảo như ở Trung-Hoa Quốc-Dân-Ðảng. Sự thực thì ở Thượng-Hải, dưới chế-độ Tưởng, có rất nhiều tư-sản mại-bản, nhưng ở Việt -Nam thì thuở ấy hoàn toàn không có, vì trong suốt thời kỳ Pháp-thuộc, mọi việc xuất-nhập cảng đều thuộc độc-quyền một vài công ty tư-bản Pháp.
Nói rằng dưới chế độ thuộc địa có tư-sản mại-bản Việt-nam đã là hài-hước, mà cho rằng trong vùng kháng chiến có tư-sản mại-bản lại là vô-lý hết chỗ nói. Tuy nhiên, Bác Mao nói thì phải nghe và lệnh trên ban xuống thì phải thi hành, và muốn cho danh-sách có đủ các thành phần như cấp trên đòi hỏi, các ủy-ban tỉnh liền bắt mấy cán-bộ mậu-dịch của Ðảng, lâu nay phụ-trách buôn lậu xe-đạp, thuốc tây, dầu lửa, và một vài thức cần thiết cho kháng chiến từ vùng tề vào. Lý-luận của cộng-sản rất đơn sơ. Nếu không có xuất nhập khẩu thực sự, thì việc buôn lậu qua giới tuyến cũng có thể tạm coi là xuất nhập khẩu.
Kết quả là mấy người trước kia được Ðảng tín-nhiệm giao cho công việc nguy-hiểm là buôn bán với "tề" bỗng nhiên bị quy là "Việt-gian" và đưa vào trại giam. Sau khi danh sách được Trung-ương chấp nhận, một tòa-án quân sự được thành lập trong mỗi Khu và di-chuyển từ tỉnh nọ sang tỉnh kia để xử án "Việt-gian" ở mỗi tỉnh. Chánh án khu Tư là ông Hồ-đắc-Ðiềm, trước kia là tổng-đốc Hà-đông và giáo-sư trường Luật Hà-Nội. Thẩm-phán và công-tố viện đều là đảng-viên Ðảng Lao Ðộng. Không có trạng-sư, chỉ có "biện-hộ viên". Họ không phải là luật-gia xuất thân, mà chỉ là người thường, một người làm nghề đỡ đẻ, và nhiệm vụ của họ là bênh-vực quyền lợi của nhân dân, không phải quyền lợi của bị can. Họ có xin tòa khoan hồng cho một số "cò mồi" bị bắt để lấy cớ khai ra "đầu xỏ", nhưng họ yêu cầu tòa thẳng tay trừng-trị "Việt-gian phản-động". Tòa xử công khai, nghĩa là có hai đoàn đại-biểu đi dự. Một đoàn do mỗi xã cử một người và một đoàn do mỗi xí-nghiệp cử một người. Tất nhiên những người được cử đi dự đều là đảng-viên trung-kiên. Những đại-biểu đi dự được sửa soạn hai tuần lễ trước, học thuộc lòng những khẩu hiệu cần phải hô, và hô vào những lúc nào cho đúng lúc. Việc sửa soạn thì rất rầm rộ, nhưng đến khi tòa xử thì tương đối rất khoan hồng. Chiến lược cộng-sản là tỏ thái-dộ công-bình và khoan hồng trong những vụ án có ảnh hưởng lớn đối với nhân dân.
Ở Thanh-Hóa, chẳng hạn, chỉ có địa-chủ số một là ông Nguyễn-hữu-Ngọc và một vị hòa-thượng là Tuệ Chiếu bị lên án tử hình, còn linh mục Mai-bá-Nhạc cùng hai tư-sản mại-bản chỉ bị phạt 20 và 15 năm khổ sai. Cựu quan-lại là ông Hà-văn-Ngoạn, và cựu khoa-bảng là cụ Cử Lê-trọng-Nhị không hầu tòa vì đã chết từ mấy tháng trước trong trại giam. Trong gần một năm, không thấy những người bị án tử-hình mang ra hành-hình nên nhiều người yên trí là họ được ân giảm, nhưng đột nhiên đêm trước hôm trao đổi tù-binh giữa Pháp và Việt-minh, hai người bị đưa ra bắn. Vụ hành hình này rất đơn giản, không có dân chúng xếp hàng vỗ tay và hô đả đảo như thường lệ. Sáng hôm sau, những "Việt gian" khác được trả lại tự-do.
(Còn tiếp)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét