Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011
Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997)
Thụy Khuê
Bài 1: Giai đoạn trước 1954
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường và bìa quyển "Un excommunié (Kẻ bị khai trừ)"
xuất bản tại Paris năm 1992.
"Tôi không hề tham gia Mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về phía chính quyền". Nguyễn Mạnh Tường.
Ngày 30/10/1956, Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết 6 tiếng trước Mặt Trận Tổ Quốc tại Hà Nội (3 giờ buổi sáng, 3 giờ buổi chiều) về những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Trường Chinh, Xuân Thủy và Dương Bạch Mai yêu cầu ông viết lại nội dung cuộc nói chuyện ứng khẩu thành văn bản. Ông viết lại với tựa đề: "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo", đánh máy làm hai bản, trao cho Trường Chinh và Xuân Thủy, chỉ giữ lại bản nháp viết tay.
Bài chính luận sâu sắc, chủ đích phân tích những sai lầm của chế độ, từ cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang cải tạo tư sản, quản lý mậu dịch ở thị thành, chỉ ra nguồn cội của sai lầm: vì chế độ chính trị không dân chủ. Và trình bày phương pháp sửa chữa: thực hiện những nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền, trong một chế độ dân chủ.
Bài tham luận được gửi sang Rangoon (thủ đô Miến Điện) rồi đến Pháp (theo Hoàng Văn Chí). Vậy Trường Chinh và Xuân Thuỷ, ai là người chuyển băn bản của Nguyễn Mạnh Tường ra ngoại quốc, và để làm gì? Để cho quốc tế biết tình hình miền Bắc Việt Nam hay để buộc tội tác giả ?
Nguyễn Mạnh Tường bị kiểm điểm rồi bị đuổi khỏi đại học, sống trong hơn 30 năm sa mạc. 40 năm sau, ông viết tiểu thuyết Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm) về ba chính sách nòng cốt trong thời kỳ xây dựng chế độ Cộng sản ở miền Bắc: Cải cách ruộng đất, Cải tạo tư sản, và Thanh lọc trí thức. Ông gửi bản thảo sang Paris. Đây là một trong 7 tác phẩm được hoàn tất trong giai đoạn cuối đời, tất cả viết bằng tiếng Pháp, về hơn 60 năm ông sống dưới chế độ cộng sản. Ngoại trừ cuốn Un excommunié (Kẻ bị khai trừ), được Quê Mẹ in năm 1992 tại Paris, các tác phẩm khác, chưa in.
Tại Paris trong bốn tháng (4/1989-1/1990), ông trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, được ghi âm, viết lại, in trên báo, và riêng chúng tôi cũng có dịp gặp ông, nhờ đó, nhiều vấn đề được sáng tỏ hơn.
Ngày 27/7/2003, bác sĩ nha khoa Nguyễn Văn Lung (1916-2009) (em ruột bà Hoàng Xuân Hãn) người tích cực hoạt động cho tổ chức Francophonie (Khối Pháp ngữ) gửi đến chúng tôi một tập tài liệu quan trọng về giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, với lời ghi: "Tôi xin gửi tới chị một số tài liệu về anh Tường để chị sẽ làm hương hồn anh trở lại với chúng ta". Và ông Lung đề nghị cùng chúng tôi làm một chương trình về luật sư Nguyễn Mạnh Tường trên đài RFI, dưới dạng phỏng vấn, bởi ông biết rõ con người và đã được đọc nhiều tác phẩm chưa in của Nguyễn Mạnh Tường.
Đang chuẩn bị, thì ông được thư của bà Nguyễn Mạnh Tường ngỏ ý lo ngại, ông đành phải hoãn cuộc phỏng vấn, đợi khi nào thuận tiện hơn. Tuy nhiên ông căn dặn chúng tôi có toàn quyền sử dụng tập tài liệu này trong khuôn khổ văn hoá. Cũng xin nói thêm, Nguyễn Văn Lung và Joël Fouilloux, là hai người có giấy ủy quyền của Nguyễn Mạnh Tường về việc in các tác phẩm của ông ở ngoại quốc. Chúng tôi đang chờ đợi một dịp thuận tiện để công bố những tư liệu này, thì ông Nguyễn Văn Lung đột ngột qua đời tại Paris ngày 8/10/2009.
Trong tập tài liệu này, ngoài hình ảnh, thư từ viết bằng tiếng Pháp, trao đổi giữa Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Văn Lung cùng một số người Pháp, về vấn đề Francophonie, về việc in sách của luật sư tại Pháp, còn có bản chụp hai cuốn Construction de l'orient- Apprentissage de la Méditerranée (Xây dựng Đông phương- Kinh nghiệm Địa Trung Hải) và Le voyage et le sentiment (Du hành và cảm xúc), kịch. Ngoài ra, có một bản đánh máy, kê khai gần đủ các tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường, phần lớn chưa in, và nhất là bản thảo (đánh máy) cuốn Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm) do Nguyễn Mạnh Tường sửa lỗi.
Qua những tư liệu này, chúng tôi thử dựng lại chân dung Nguyễn Mạnh Tường, chủ yếu, dẫn trích từ các tác phẩm và từ lời nói của ông trong các buổi gặp gỡ, trả lời phỏng vấn Phạm Trần, Hoà Khánh, ở Paris, và giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, học trò ông ở Hà Nội.
Phần thứ hai, chúng tôi sẽ giới thiệu tác phẩm Une voix dans la nuit, cho tới nay, là cuốn sách duy nhất do một trí thức tự do viết về những bi kịch đau thương còn khép kín. Như tất cả các tác phẩm khác của Nguyễn Mạnh Tường, Une voix dans la nuit, có bút pháp mạnh mẽ, đầy hấp lực và hình ảnh, mỉa mai và châm biếm, chặt chẽ trong lập luận pháp lý, là sự đồng quy của văn chương và luật pháp trong một ngòi bút nhà văn.
Tập tài liệu của nha sĩ Nguyễn Văn Lung trao cho chúng tôi năm 2003, với những bút tích quý giá này, sẽ được gửi về Viện bảo tàng văn học hoặc lịch sử, khi điều kiện cho phép.
Ở trong nước, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh (16/9/1909 – 16/9/2009), Nguyễn Mạnh Tường được thần tượng hoá trở lại, với những mỹ từ "thông minh siêu việt" "lưỡng khoa tiến sĩ" "kỷ lục chấn động học đường nước Pháp", "nhà sư phạm lỗi lạc"... Những điều đó ít nhiều có thật, tiếc rằng còn một sự thật đáng nói hơn là cuộc đời và tác phẩm của ông, hiện vẫn bị chôn vùi trong bóng tối.
Duy chỉ có giáo sư Nguyễn Văn Hoàn là trung thành với lời nói của thày Tường.
Còn phần lớn những học trò cũ, nay đã thành các nhà giáo nhân dân, không ngần ngại xoá bỏ quãng đời sa mạc hơn 30 năm của thầy Tường, để thay thế bằng một sự nghiệp liên tục tốt đẹp, không vết phong trần: "Chiến thắng Điện Biên Phủ, hoà bình được lập lại, toàn gia đình giáo sư Nguyễn Mạnh Tường mới trở về Hà Nội. Giáo sư tiếp tục giảng dạy tại trường Đại học tổng hợp Hà Nội và làm việc tại Viện Nghiên cứu Giáo dục từ 1954 đến 1970. Từ khi nghỉ hưu, giáo sư dạy Pháp ngữ tại nhà theo yêu cầu, và theo đuổi những công trình khoa học cứu của mình." (Trần Văn Hà, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, tự học và quyết tâm là bí quyết thành công, Xưa và Nay, số 11, 1996).
Sự đánh bóng và ngoa ngôn, cũng là một cách chôn thày thêm lần nữa, đáng ngại là nó xẩy ra ở những ngòi bút của các giáo sư đại học, mà sự chính xác phải là châm ngôn giảng dạy.
Ví dụ, về việc Nguyễn Mạnh Tường gặp chủ tịch Hồ Chí Minh trong đại hội "Liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc" năm 1952 ở Việt Bắc, nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú cam đoan rằng: "Riêng đối với giáo sư [NMT] đây là những giây phút (...) gắn bó thiêng liêng máu thịt giữa giáo sư với cách mạng, với lãnh tụ, đến mức cực độ".
Hoặc để chứng minh những "vinh quang chói lọi" của thày Tường, ông Nguyễn Đình Chú không ngần ngại xác định: "thân phụ là một công nhân", "Nguyễn Mạnh Tường đã liên tiếp tốt nghiệp cao đẳng văn chương, cử nhân văn chương, cử nhân luật khoa, làm luật sư toà thượng thẩm Montpellier, cao đẳng ngôn ngữ, và văn tự cổ"; và luận án tiến sĩ được phê "siêu ưu" (ông dịch chữ très bien) (trong bài Thầy tôi, Hồ sơ Nguyễn Mạnh Tường, mạng Vietstudies). Chẳng hiểu Pháp có các bằng cao đẳng văn chương, cao đẳng ngôn ngữ, và văn tự cổ từ thủa nào? Và Nguyễn Mạnh Tường chỉ mới tập sự luật sư, khi ở Pháp.
Ông Phong Lê, giáo sư, Viện trưởng Viện văn học, viết: "Năm 1928, đỗ cao đẳng văn chương, năm 1929, đỗ cử nhân văn chương, cũng năm 1929, đỗ cử nhân Luật- Năm 1931, đỗ cao đẳng ngôn ngữ văn tự cổ (tức chữ La Tinh và Hy Lạp cổ". Rồi một chỗ khác, ông giải thích thêm: "Mà cử nhân thì còn lâu mới đến Tiến sĩ, sau khi vượt được cái ngưỡng cửa Thạc sĩ. (Lúc này tất cả các thầy Pháp ở Đại học Đông Dương đều mới chỉ có bằng Thạc sĩ)". (Hồ sơ Nguyễn Mạnh Tường, mạng Vietstudies)
Thì ra các giáo sư Nguyễn Đình Chú và Phong Lê chẳng hiểu gì về văn bằng ở Pháp.
Riêng ông Phong Lê còn nhầm Thạc sĩ (Agrégé) của Pháp, một kỳ thi tuyển rất khó, với văn bằng hiện nay ở Việt Nam gọi là Thạc sĩ, tương đương với Maîtrise của Pháp, hay Master của Mỹ. Khi dịch Maîtrise hay Master thành Thạc sĩ, Bộ Giáo Dục, vì không hiểu lịch sử của hai chữ Thạc sĩ, nên đã dịch bậy, gây lầm lộn như thế.
Thạc sĩ là một kỳ thi tuyển (concours) chọn các giáo sư của Pháp để dạy các trường trung học (thạc sĩ văn chương, khoa học), hay đại học (thạc sĩ luật hay y khoa -nay đã bỏ-). Để dự thi thạc sĩ văn chương hay khoa học, thí sinh cần phải có bằng cử nhân (licence ngày trước, maîtrise hiện nay), riêng thạc sĩ luật (và y khoa) đòi hỏi bằng tiến sĩ.
Việt Nam có Nguyễn Mạnh Tường đỗ 2 bằng Tiến sĩ quốc gia (1933) và Phạm Duy Khiêm đỗ Thạc sĩ (1935), sau này về y khoa có Thạc sĩ Trần Đình Đệ... đều là những người học giỏi nổi tiếng.
Tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường
Trong lá thư đề ngày 16/8/1994 gửi Nguyễn Văn Lung, Nguyễn Mạnh Tường viết:
"Tôi vẫn tiếp tục làm việc, dậy học và hoàn tất cuốn tiểu thuyết mới nhất Palinodies [Phủ nhận] cuốn sách thứ 18 của tôi". Như vậy tạm coi Palinodies là tác phẩm cuối cùng, và là cuốn sách thứ 18 của ông.
Với những tư liệu hiện hành, xin tạm kê khai những tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường như sau:
Thời kỳ 1932, các luận án, Pháp văn:
1/ L'Individu dans la vieille cité annamite- Essai de synthèse sur le Code de Lê (Cá nhân trong xã hội cổ Việt Nam - Tổng luận Luật Hồng Đức): Luận án tiến sĩ Luật.
2/ Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset) luận án chính (thèse principale), tiến sĩ văn chương.
3/ L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong văn chương Pháp, tác phẩm của Jules Boissières), luận án phụ (thèse complémentaire), tiến sĩ văn chương.
Thập niên 1940, tác phẩm Pháp văn:
4/ Sourires et larmes d'une jeunesse (Nụ cười và nước mắt tuổi trẻ), Revue Indochinoise, Hà Nội, 1937.
5/Construction de l'Orient-Pierres de France (Xây dựng Đông phương-Nền tảng Pháp), Revue Indochinoise, 1937.
6/ Construction de l'Orient - Apprentissage de la Méditerranée (Xây dựng Đông phương - Kinh nghiệm Địa Trung Hải), Collection Tendances, Hà Nội, 1939.
7/ Le voyage et le sentiment (Du hành và cảm xúc), kịch ba màn, Collection Tendances, Hà Nội, 1943.
1950, Việt văn:
8/ Một cuộc hành trình (Minh Đức, Hà Nội, 1954) (nửa hồi ký, nửa nghị luận. Hành trình một người trí thức tham gia kháng chiến)
Sau 1958, Việt văn:
9/ Lý luận giáo dục Âu châu thế kỷ XVI, XVII, XVIII, từ Erasme tới Rousseau (tên Pháp: Doctrines pédagogiques de l'Europe du XVI au XVIIIe siècle, d'Erasme à Rousseau), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1994.
10/ Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp (Eschyle et la tragédie grecque), nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1996.
11/ Orestia (dịch và chú giải bi kịch của Eschyle sang tiếng Việt). Chưa in.
12/ Virgile, nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mã cổ đại [tên gốc:Virgile và anh hùng ca La tinh- Virgile et l'épopée latine], nxb Khoa Học Xã Hội, 1996.
Bắt đầu viết tự truyện, tiếng Pháp: Larmes et sourires d'une vieillesse.
Sau khi đi Pháp về (1990-1994), hoàn tất cả tác phẩm, Pháp văn:
13/ Larmes et sourires d'une vieillesse (Nụ cười và nước mắt tuổi già), tự truyện, ba cuốn, chưa in.
14/ Triptyque (tạm dịch: Bức họa ba tấm), chưa in.
15/ Un excommunié (Kẻ bị khai trừ), Quê Mẹ, Paris, 1992.
16/ Malgré lui, malgré elle (Mặc hắn, mặc nàng) (l'amour conjugal sous le régime communiste) (tình yêu vợ chồng dưới chế độ cộng sản). Chưa in.
17/ Partir, est ce mourir? (Đi là chết?) (Tragédie de l'émigration) (Bi kịch di dân). Chưa in.
18/ Une voix dans la nuit- Roman sur le Việt Nam 1950-1990 (Tiếng vọng trong đêm-Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990). Chưa in.
19/ Palinodies (Phủ nhận). Chưa in.
Trừ bản dịch Orestia, thì đúng Nguyễn Mạnh Tường đã viết 18 cuốn sách (kể cả các luận án tiến sĩ).
Trừ bốn cuốn tiếng Việt, phần còn lại, để bảo tồn tự do của ngòi bút, để thế giới có thể đọc được, để giữ an ninh cho gia đình, và bảo toàn bản thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã chọn tiếng Pháp. Vì vậy, muốn đọc và hiểu ông, cần phải biết tiếng Pháp, hoặc phải có bản dịch. Văn chương điêu luyện của ông không dễ dịch, bản dịch Un excommunié (Kẻ bị mất phép thông công) của Nguyễn Quốc Vĩ (trên các mạng Thông Luận, Vietstudies) mới chỉ là bản đầu tiên, chưa diễn đạt được văn phong uy vũ của Nguyễn Mạnh Tường. Ngay trong cái tựa Un excommunié, tác giả đã có ý so sánh chế độ cộng sản như một giáo hội cuồng tín, loại trừ kẻ ngoại đạo (những người không cộng sản), vì vậy, nên dịch theo nghiã bóng Kẻ bị khai trừ, hơn là dịch theo nghiã đen, Kẻ bị mất phép thông công, yếu và khó hiểu.
Con đường hoà hợp văn hoá Đông Tây
Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16/9/1909 tại phố Hàng Đào; nguyên quán: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Mất ngày 13/6/1997 tại nhà riêng, 34 Tăng Bạt Hổ, Hà Nội.
Cha: Nguyễn Căn Cát, công chức. Năm 1937, kết hôn với cô Tống Lệ Dung, có ba con: Nguyễn Tường Hưng, Nguyễn Dung Nghi và Nguyễn Dung Trang.
Học tiếng Pháp từ nhỏ. Collège Paul Bert, rồi lycée Albert Sarraut, Hà Nội.
1925, đậu Tú tài triết học (16 tuổi), hạng ưu. Được học bổng sang Pháp học Luật và Văn chương tại đại học Montpellier.
1927, đậu cử nhân văn chương với 4 chứng chỉ: văn chương Pháp, văn chương Hy Lạp, văn chương La Tinh và Bác ngữ học (Philologie).
1930, đậu cử nhân Luật. Dự định thi tuyển Thạc sĩ (concours d'Agrégé) để dậy học, nhưng vì quốc tịch Việt nên không được thi. Sửa soạn luận án tiến sĩ quốc gia (doctorat d'état). Trong thời gian làm luận án, ông thực tập luật sư tại toà Phúc thẩm Montpellier.
Tháng 5/1932, ông bảo vệ luận án tiến sĩ Luật, đề tài: L'Individu dans la vieille cité annamite- Essai de synthèse sur le Code de Lê (Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ - Tổng luận Luật Hồng Đức). Tháng 6/1932, bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset) và luận án bổ túc: L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières).
Trả lời phỏng vấn của Phạm Trần, Nguyễn Mạnh Tường giải thích:
"Chính sách đàn áp của thực dân (đặc biệt sau vụ nổi dậy của Việt Nam quốc dân đảng), chương trình học, cũng như mặc cảm lạc hậu về đất nước khiến người trí thức hồi đó dễ xa lìa mạch sống dân tộc. Thế nên, cái vấn nạn lớn nhất của chúng tôi thời đó là làm cách nào để dung hợp hai nền văn hoá Đông Tây đối chọi nhau. (...) Để hoà hợp, căn bản đầu tiên là phải hiểu nhau. Hai nền văn hoá phải cho nhau biết bản sắc, lề lối suy nghĩ (mentalité) của mình. Từ đó, gạn đục khơi trong để tổng hợp. Và căn bản nghiên cứu của tôi phát xuất từ nhận định đó. Tôi khảo sát nét hay của văn minh Âu. Tôi mơ ước đem văn minh vật chất Âu kết vào vũ trụ tình cảm Đông".
"Ngay từ khi viết luận án, tôi đã mang ý hướng ấy. Luận án Luật tôi dành cho Việt Nam. Tôi khảo sát cái chủ nghiã cá nhân (một sản phẩm đặc thù Âu Tây), đã thể hiện ra sao trong văn hoá Việt, cụ thể qua Luật Hồng Đức (thế kỷ XV), một bộ luật còn mang nhiều dân tộc tính. Đề tài chính của luận án văn, tôi dành cho văn hoá Pháp; đề tài phụ tôi dùng J. Boissières để kết nối Đông Tây. Boissières đã vẽ lại bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đã đặt chính sách thực dân trước những vấn nạn lương tâm khó xử". (Hạnh ngộ cụ Nguyễn Mạnh Tường, Hai thế hệ, một tâm tình, Phạm Trần ghi, Paris, 16/11/1989, tài liệu đánh máy).
Chú thích: Jules Boissières, thuộc ngành hành chính dân sự, 1886 đến Bắc Kỳ cùng với Paul Bert và làm phụ tá cho Paul Bert. Paul Bert, bác học và chính trị gia, học trò của Claude Bernard, là vị Tổng trú sứ (Résident général) Bắc và Trung kỳ có đầu óc tự do, ôn hoà, chủ trương hợp tác Pháp Việt, ông mở các trường Pháp-Việt đầu tiên ở Bắc và Trung (ở Nam Kỳ có từ 1867). Năm 1886, Paul Bert mất tại Hà Nội. Boissières mất tại Hà Nội năm 1897, ở tuổi 34, nổi tiếng với tập truyện ngắn Fumeurs d'opium (Những kẻ hút thuốc phiện) in năm 1919.
Đậu hai bằng tiến sĩ ở tuổi 22.
Một trường hợp hiếm có ở đại học. Nguyễn Mạnh Tường thành công vì làm việc cật lực:
"Từ lớp sáu cho tới tú tài, mỗi tuần tôi có thói quen đọc 2 cuốn tiểu thuyết Tây. (...) và nhất là do cật lực làm việc: suốt 5 năm dài, mỗi sáng tôi thức dậy từ 4 giờ, học và viết tới 8 giờ thì đi lớp; chiều lại học tới khuya." (Phạm Trần, bđd).
Tháng 9/1932, ông về nước, ở 3 tháng, rồi lại sang Pháp.
Việc này, trong các bài trả lời phỏng vấn ở Paris, không thấy ông nói đến. Một số người đưa ra thuyết: "chính quyền thực dân Pháp không muốn dùng ông. Không tìm được việc làm xứng đáng với học vị của mình, ông lại sang Pháp" (Trần Văn Hà, bđd)
Nhưng theo Nguyễn Văn Hoàn, thì Nguyễn Mạnh Tường kể lại rằng: "Về nước có hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty, gặp và gợi ý tôi vào làm việc với Bảo Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây khó khăn, ở nhà ba tháng, tôi trở lại Pháp" (Nguyễn Văn Hoàn, Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường, tháng 10/2009, báo Hồn Việt, mạng Vietstudies).
Chứng này có thể tin được vì Nguyễn Mạnh Tường và Bảo Đại cùng về nước tháng 9/1932, và bản thân ông muốn đứng về phía dân, không tham chính.
Tháng 12/1932, ông trở lại Paris.
Từ 1933-1936: du lịch nhiều nước Âu Châu.
"Thành thật nói, tôi đã trở thành một hiện tượng. Các báo ở Paris và Montpellier dành cả số nói về tôi. Có tờ coi sự thành công của tôi là một "sai lầm" của Pháp [ông muốn nói đến bài của Clément Vautel]. Song hầu hết đều nói tốt. Cũng nhờ vậy mà nhiều đại học Âu Châu biết và mời tôi tới thăm. Tôi đã có dịp Âu du một vòng không mất tiền từ London sang La Haye xuống Bruxelles, Berlin, Athènes, Rome, Istanbul, Vienne, Madrid... Tôi còn nhớ trên đường từ Berlin về Vienne thời đó (1933) tôi ngang qua Munchen và tham gia cuộc biểu tình lớn của Hitler tổ chức." (Phạm Trần, bđd).
Theo cuốn Apprentissage de la Méditérannée (Kinh nghiệm Địa Trung Hải) ông đến Madrid tháng 4/1933, đi thăm các tỉnh Tây Ban Nha và đi Ý; năm 1934 sang Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy ông đã nhớ lầm trật tự các chuyến đi, khi trả lời Phạm Trần 60 năm sau.
Ở đây, chúng ta cũng nên đọc qua bài báo của Clément Vautel, tiêu biểu cho khuynh hướng thực dân ngạo mạn và kỳ thị. Bài ngắn, chúng tôi dịch cả để độc giả thấy giọng điệu xỏ xiên này:
"Một tay An-nam-mít 22 tuổi, tên Nguyễn Mạnh Tường, vừa giật dễ dàng hai bằng tiến sĩ luật và văn chương ở đại học Montpellier. Hắn chỉ học có năm năm đã đoạt hai phẩm hàm cao nhất của phương Tây.
Tay trí thức "da vàng" này, đặc biệt nổi trội khi trình luận án văn chương với đề tài tuồng Alfred de Musset, có thể dạy cho bọn bỉnh bút của ta một bài học đích đáng. Ban giám khảo đã có lời khen rồi, tôi chả có tư cách gì mà chêm vào nữa.
Thực đếm không xuể số trẻ Đông Dương đoạt đủ loại bằng cấp tại Pháp: chúng đạt những thành quả ở đại học mà bọn "rợ trắng" không khá bằng, thèm muốn.
Rất chăm chỉ, thông minh, lại đầy tham vọng, những tay Á châu này tháo gỡ như bỡn những bí quyết trong đỉnh cao học thuật của chúng ta, rồi về xứ rêu rao:
- Cái văn minh nức tiếng kia rút cục chỉ có thế ư? Xa trông, tưởng ghê gớm, chứ đến gần, nào có ra gì!
Vì vậy, tôi tự hỏi, chúng ta chẳng đã phạm những nhầm lẫn sơ đẳng nhất, khi dạy cho các tướng này những bí quyết "văn hoá" của chúng ta, để khi về nước, chúng không còn tin vào tính ưu việt của giống nòi da trắng đang bảo hộ chúng.
Việc mở cửa cho bọn bản xứ vào các đại học của ta, và tưới xả láng chúng những bằng tiến sĩ này nọ, xem thì cũng ngộ đấy; nhưng chớ có ảo tưởng, coi đó là phương tiện xoá dấu vết xâm lăng để từ thời đại đô hộ nhẹ bước sang thời đại cộng tác.
Không phải tất cả những tên da vàng được ta bôi trát thứ trí thức trắng này, sẽ xoay sang đỏ choé khi chúng về tới bờ sông Hồng, nhưng nhiều đứa trong bọn sẽ trở thành cán bộ của cái đảng cộng sản, mà ở Âu Châu, thì tuyên bố vô tổ quốc, nhưng về đến nền thuộc địa, lại rao giảng chủ nghiã quốc gia trăm phần trăm.
Thử hỏi làm sao mà khác cho được? Cái làm tôi ngạc nhiên, là một cô gái Đông dương -bởi có cả bọn sinh viên con gái da vàng nữa- về nước với bằng giáo sư sử học, tuyên bố: Chừ tôi mới chính là Jeanne d'Arc đây! Vậy mà ả vẫn chưa thành "Nữ Thánh đồng trinh đỏ" của cuộc cách mạng giải phóng.
Theo tôi, khôn ngoan ra, thì ta nên khai hoá dân bản xứ bằng chính cái văn miêng của chúng. Thử hỏi cái luận án của một tay An-nam-mít về tuồng hát của Musset, là cái giống gì? Dù tuồng đó có đậm đà, tinh tế, cao nhã, gì gì đi nữa, thì nó cũng chẳng làm cho kẻ bị đô hộ có cảm tưởng tốt đẹp về đạo đức của người đô hộ.
Đừng quên Gandhi cũng đã đỗ đạt ở bên kia bờ biển Manche, và, với cái guồng sợi của mình, hắn đã làm cho nước Anh rối loạn... Cứ từ từ, rồi một ngày, chúng ta cũng sẽ như vậy." [Mon film (Ống kính của tôi) của Clément Vautel, báo Le Journal ngày 17/7/1932].
Bài báo nói lên lòng căm thù chủng tộc và ganh tỵ nhân tài.