Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

Sinh nhật 100 năm George Orwell, đọc lại Animal Farm và Nineteen Eighty-Four (*)

Trần Hữu Thục

George Orwell
LTS. Dù sinh nhật 100 năm của George Orwell xảy ra cách đây đã tám năm, chúng tôi cũng xin đăng lại bài viết này, vì đây là một thiên khảo cứu rất sâu sắc về George Orwell và hai tác phẩm nổi tiếng của ông, Animal Farm và Nineteen Eighty-Four.


Vả chăng, dù chế độ cộng sản đã sụp đổ, bóng ma của nó vẫn còn phảng phất nơi một số nước gọi là xã hội chủ nghĩa với chế độ toàn trị. Những hình ảnh của Trại Loài Vật mà George Orwell mô tả, vì thế vẫn còn tồn tại nơi một số nước, dù các “nhân vật” có thể phần nào đã biến dạng. - DĐTK

George Orwell mất vào năm 1950, tức là cách đây hơn 50 năm. Ông không để lại nhiều tác phẩm, nhưng ảnh hưởng của chúng không hề tan biến theo thời gian. Nhân kỷ niệm một trăm năm ngày sinh (6/1903-6/2003), tác phẩm và cuộc đời của George Orwell được nhiều giới khác nhau (sử gia, phê bình văn học, nhà văn, nhà báo...) đánh giá lại, gây ra tranh cãi tại nhiều nơi ở Hoa Kỳ và Anh Quốc. Tháng 5/2003, 300 học giả hội họp tại Wellesley ba ngày liên tiếp trong một cuộc hội thảo có tiêu đề là "An Exploration of His Work and Legacy". Nhân dịp này, người ta phát hành hai cuốn tiểu sử mới viết về Orwell. Xin trích lại đây vài ý kiến về Orwell trên báo chí nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh:
- “Như là một trong những bậc thầy của nền văn xuôi Anh Quốc, George Orwell là một trường hợp gây bối rối, khó xử. Những người đương thời biết rằng ông có cái gì đặc biệt, nhưng lại khó giải thích tại sao. Việc mang ông ra thảo luận chẳng dễ dàng hơn chút nào theo thời gian” (1)

- "George Orwell là một nhà văn chính trị, một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ 20 (...) Một nhà văn chính trị là một nhà văn hết sức quan tâm đến từ ngữ công chính, khinh bỉ những thành quả lớn và không tự xem mình là anh hùng hay một nhà tiên tri” (2)

- Orwell là "một cây bút không hoàn hảo mà lại hấp dẫn" (...) "Và tên của Orwell đã trở thành tiếng tính từ tiêu chuẩn được sử dụng khi đo lường khoảng cách giữa ngôn ngữ chính trị và thực tế đạo đức" (3)

Washington Post, trong một bài viết khác của Jeremy Lovell, lại tố cáo là Orwell “có tinh thần bài Do Thái và là một kẻ cô đơn không bè bạn thường khoác chiếc áo giai cấp thợ thuyền nhưng lại ăn nói theo kiểu giai cấp lớp trên - là người bị xâu xé giữa một bên là xã hội chủ nghĩa và bên kia là chống báng Liên Xô của Stalin". Và mới đây, không lâu trước ngày kỷ niệm, một tài liệu chưa hề công bố cho biết, ít tháng trước khi chết, Orwell đã giao cho Sở Ngoại Vụ Anh một bản danh sách gồm 38 người Cộng Sản và những bạn hoạt động bí mật của ông. Danh sách sau đó đã được sử gia Timothy Garton Ash tiết lộ đầy đủ.

Sự kiện đó đã khiến người ta nghi ngờ xu hướng xã hội chủ nghĩa và tinh thần chống độc tài của ông, đồng thời làm hoen ố danh tiếng mà ông có được từ cả hơn nửa thế kỷ nay. Tuy nhiên, trong một cuộc trò chuyện với tờ Guardian(4) , sử gia Norman Mackenzie - một trong số 38 người có tên trên bản danh sách, hiện còn sống - cho rằng khi bị bệnh lao, ông không còn kiểm soát được mình nữa. "Đó là một danh sách không đáng tin cậy. Những bệnh nhân bị bệnh lao thường rất kỳ quặc vào giai đoạn cuối. Tôi là một người ngưỡng mộ Orwell, tôi đồng ý với ông về Liên Xô, nhưng tôi cho rằng ông đã phần nào trở nên lẩm cẩm rồi".

****

George Orwell là bút hiệu của Eric Arthur Blair, sinh ngày 25 tháng 6/1903 tại Bengal (Ấn Độ), con thứ hai của một viên chức Anh làm việc tại sở thuốc phiện, Ấn Độ. Ít tháng sau khi sinh, ông theo mẹ về lại Anh quốc và sống ở đó cho đến khi trưởng thành. Ông học hành không lấy gì xuất sắc, do đó, không được học bổng để vào đại học. Chán nản, năm 1922, ông đăng ký làm cảnh sát thuộc địa tại Burma (Miến Điện). Công việc này chẳng làm ông thú vị gì, nhưng giúp ông nhìn thấy rõ bản chất của chủ nghĩa thuộc địa và hình thành xu hướng xã hội chủ nghĩa của ông sau này. Trong thời gian phục vụ, ông bắt đầu viết lách lăng nhăng, nhưng không mấy thành công. Nhiều bài sau này in trong tuyển tập Shooting an Elephant (1950) đề cập đến cung cách làm việc của các viên chức thuộc địa. Một trong những bài viết nổi tiếng nhất là “A Hanging” kể chuyện một người Ấn bị treo cổ chết.

Sau năm năm làm việc, ông từ chức và trở về lại Âu Châu. Ông sống như một kẻ vô gia cư, làm những việc vặt vãnh ở cả Anh và Pháp, có lúc phải đi ăn xin. Để biết qua về kiếp tù đày, một lần, ông giả vờ say sưa để bị bắt nhốt. Kinh nghiệm sống đó cung cấp cho ông chất liệu độc đáo, dồi dào để ông hoàn tất truyện dài Down and Out in Paris and London (1933), diễn tả cuộc sống bi đát của những kẻ sống bên lề xã hội. Một vài nhân vật chẳng khác gì mấy nhân vật trong truyện của Charles Dickens (Anh). Sợ không thành công, ông không dám dùng tên thật mà lấy một tên khác làm bút hiệu: George Orwell. Trái với sự lo ngại của tác giả, tác phẩm được sự ca ngợi của giới phê bình, mặc dầu không tránh khỏi những nhược điểm tất nhiên của một tác phẩm đầu tay. George Orwell, từ đó, được dùng làm tên chính thức cho tất cả các tác phẩm cũng như tiểu luận về sau của ông.

Bốn năm sau, một tác phẩm khác ra đời: The Road to Wigan's Pier (1937). Đó là một ký sự, kết quả của hai tháng đi lang thang trong các hầm mỏ, bến tàu, những khu láng giềng tồi tàn, bẩn thỉu vùng Lancashire và Yorshire (Anh). Tác phẩm chấm dứt với lời thú nhận rằng ông tin ở chủ nghĩa xã hội và rằng các phong trào cánh tả là lực lượng duy nhất đủ sức chống lại cơn triều dâng của chủ nghĩa phát-xít đang hoành hành ở Châu Âu. Nhưng đồng thời tác giả không quên cảnh báo về nguy cơ của một xã hội theo chủ nghĩa toàn trị kiểu Stalin ở Liên Xô. "Chúng ta cần có chính sách tuyên truyền thông minh. Bớt đi những là "ý thức giai cấp", "trưng thu tài sản của những kẻ bóc lột", "ý thức hệ trưởng giả", "tình liên đới vô sản"...và thêm vào đó công lý, tự do và thực cảnh của những người thất nghiệp", Orwell viết.


Năm 1937, Orwell sang Tây Ban Nha, gia nhập tổ chức "Workers' Party of Marxist Unification" (POUM = Đảng Công Nhân Mác-Xít), chiến đấu chống quân đội phát-xít. Một thời gian sau, ông bỏ đảng, dù vẫn đứng trong hàng ngũ công nhân. Về Anh, ông gia nhập một đảng khác, "Independent Labour Party" (Lao Động Độc Lập). Và rồi lại bỏ đảng vài tháng sau đó. Con người Orwell là như thế. Cam kết theo đuổi lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhưng lại không muốn lệ thuộc vào bất cứ một đảng phái chính trị nào. "Một nhà văn chỉ có thể giữ gìn sự ngay thẳng của mình nếu anh ta không chịu ảnh hưởng của bất cứ đảng phái nào", ông phát biểu. Những ngày tháng ở Tây Ban Nha, ông chứng kiến mật vụ Sô Viết đàn áp tàn bạo phong trào vô chính phủ, đồng thời dưới áp lực của Liên Xô, chính phủ Tây Ban Nha đàn áp phong trào của ông. Kết quả là sự ra đời của Homage to Calalonia (1938), phản ảnh bộ mặt của cuộc nội chiến Tây Ban Nha với tất cả những bi thương khủng khiếp của nó và là một bản tố cáo chính sách khao khát quyền thống trị của Stalin đối với các phong trào cánh tả trên toàn thế giới. Khác với hai tác phẩm trước đó, Homage to Catalonia không gây mấy tiếng vang, vì lúc đó, dư luận chung cho rằng tố cáo Stalin sẽ làm yếu đi phong trào chống phát-xít ở Châu Âu.

Thời đệ Nhị Thế Chiến, do yếu phổi và bị thương trong cuộc chiến Tây Ban Nha, ông được miễn nhập ngũ. Ông làm việc cho đài BBC, rồi sau làm chủ bút tờ báo cánh tả Tribune cho đến cuối chiến tranh. Lúc này, tài năng viết lách của ông đã đến độ chín toàn diện và tên tuổi của ông cũng đã nổi tiếng khắp châu Âu. Năm 1943, ông bắt đầu viết Animal Farm, một tác phẩm mà nội dung đã được thai nghén từ năm 1937, như ông cho biết. Tác phẩm gặp trắc trở lúc đầu. Có đến bốn nhà xuất bản từ chối in với một trong những lý do khá thuyết phục: tác phẩm có nội dung chống Stalin trong lúc Stalin đang là đồng minh của Anh Quốc và Hoa Kỳ chống Hitler.

Mãi cho đến tháng 8/1945, vài ngày sau khi khi Hoa Kỳ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, tác phẩm mới lặng lẽ xuất hiện trên những kệ sách của các tiệm sách Luân Đôn. Lúc này, Đức và Nhật đã hoàn toàn bại trận. Một liên minh với Stalin không còn cần thiết nữa. Đúng thời điểm, cuốn sách mỏng có tựa đề Animal Farm, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có tiếng vang lớn trong giới chính trị và văn chương Anh thời hậu chiến, trở thành bestseller và được giới phê bình xem là một kiệt tác. Nhờ thế, Orwell có tiền và tậu được một trang trại tại Hebrides, nơi ông hoàn thành tác phẩm kế tiếp, Nineteen Eighty-Four (sau này đổi cho gọn thành 1984), xuất bản năm 1949. Khác với Animal Farm, Nineteen Eighty-Four là một cái nhìn về tương lai. Theo các nhà phê bình, Nineteen Eighty-Four chứa đựng dấu vết của nhà viết truyện châm biếm Anh gốc Irish thế kỷ thứ 18 là Jonathan Swift và hai nhà văn đương thời: Aldous Huxley (Anh) và Yevgeni Zamyatin (Nga). Cần ghi nhận: tựa đề Nineteen Eighty-Four không chứa đựng bất cứ một tiên tri nào, mà đơn giản chỉ là cách nói ngược của năm 1948. Nhưng ông không sống lâu để hưởng thụ thành quả của mình. Cố gắng để hoàn tất Nineteen Eighty-Four trong ngôi nhà lộng gió và thiếu sưởi ấm đã khiến bệnh lao phổi của ông nặng thêm. Một hôm, kiệt sức, ông được đưa gấp đến viện điều dưỡng Gloucestershire. Bệnh mỗi ngày mỗi nặng. Tám tháng sau, người ta chuyển ông qua bệnh viện Luân Đôn. Ông chết tại đó vào tháng 1/1950 sau một cơn xuất huyết.

Orwell là một người khá bất thường. Giọng nói thì the thé khó nghe, ăn mặc lúc nào cũng xoàng xĩnh, y như một tay nghèo túng kinh niên, nghiện thuốc nhưng chuyên môn hút thuốc tự mình vấn lấy. Người đầy cá tính, không mấy tin cậy người lạ mặt, và do đó, ít bạn bè. Có lẽ vì thế mà các nhân vật hư cấu của ông thường khô khan, cứng nhắc, thiếu tính thuyết phục. Các nhân vật nữ được phác họa sơ sài, thiếu nét hấp dẫn và thiện cảm khiến người ta ngờ rằng ông có tâm lý ghét phụ nữ (misogyny). Phải chăng vì ông là người ưa săn đuổi phụ nữ, nhưng không mấy thành công? Một đặc điểm khác: ông không thích ai đọc trước bài viết của mình và góp ý. "Tôi không cần ai (góp ý) cả. Bài viết luôn luôn toàn hảo. Kể cả những dấu chấm phết", ông khẳng định. Lại mặc cảm tự ti. "Ngay từ lúc mới đầu, tham vọng văn chương của tôi thường lẫn lộn với cảm giác bị cô lập và bị coi thường", ông thú nhận về sau này. Ông xem cuộc đời riêng của ông là một phấn đấu không ngừng nghỉ để thoát ra khói cảm giác bị coi thường đó và nhiệt tình với chuyện viết lách. Trong một bài viết năm 1947, ông nhận xét: "Tất cả mọi nhà văn đều hão huyền, ích kỷ và lười biếng và ngay trong tận cùng động cơ viết lách của họ, vẫn tồn tại một điều bí ẩn. Viết một tác phẩm là một cuộc tranh đấu khủng khiếp, kiệt sức giống như trải qua một cơn bệnh đau đớn kéo dài. Người ta sẽ không bao giờ làm được một công việc như thế nếu không bị lôi kéo bởi loại quỷ quái nào đó mà người ta không cưỡng chống được mà cũng chẳng hiểu rõ” (5)

****

Tên tuổi của Orwell gắn liền với hai cuốn tiểu thuyết độc đáo: Animal FarmNineteen Eighty-Four. Một số người cho rằng đó là hai kiệt tác của Orwell.

Animal Farm (6) là một câu chuyện hài hước cay đắng mô tả cuộc nổi loạn của một nhóm súc vật chống lại ông chủ Người của chúng. Trước hết, đám súc vật đói khổ trong nông trại của ông Jones được con heo "lý thuyết gia" Old Major truyền bá tư tưởng: tất cả mọi đau khổ của kiếp súc vật là do sự thống trị của Con Người, một tạo vật lười biếng và độc đoán, bắt súc vật làm việc tối đa để phục vụ cho quyền lợi của họ. Để chấm dứt đau khổ, loài vật phải lật đổ ách thống trị của Con Người và xây dựng một xã hội, trong đó mọi con vật đều được bình đẳng. “Nên nhớ rằng trong cuộc chiến đấu chống lại Con Người, chúng ta không được bắt chước hắn. Ngay cả khi chiến thắng hắn rồi, đừng chấp nhận những thói xấu của hắn…Tất cả mọi thói quen của Con Người đều xấu xa”.


George Orwell


Mọi con vật đều thích thú tán đồng. Nhưng trong cuộc họp đầu tiên bàn việc lật đổ Con Người, trong khi Major tuyên bố “mọi con vật đều là đồng chí” thì mấy con chó nhìn thấy bốn con chuột lớn bèn vồ ngay, ăn ngấu nghiến. Major bất bình, yêu cầu đại hội bầu phiếu về sự kiện đó. Đa số đều tán thành rằng chuột cũng là đồng chí. Nhưng có bốn phiếu chống là phiếu của ba con chó và một con mèo: đúng là bản năng thú tính làm việc. Dù chỉ là một thiểu số rất nhỏ, nhưng điều đó chứng tỏ đã có một dấu hiệu bất bình thường trong đám súc vật.

Sau khi Old Major chết, hai con heo Snowball và Napoleon, đứng ra lãnh đạo cuộc cách mạng với sự phụ tá của Squealer, một con heo khác có tài về tuyên truyền thuyết phục quần chúng. Lợi dụng lúc ông chủ say sưa, không quan tâm gì đến các con vật đang bị đói, đám súc vật nổi loạn, đuổi ông Jones đi. Cách mạng thành công, ba con heo thiết lập một hệ thống chính quyền mới dựa trên “Animalism" (thú vật chủ nghĩa) với bảy điều cam kết (the Seven Commandments) như sau:
Bất kỳ con vật nào đi bằng hai chân đều là kẻ thù
Bất cứ con vật nào đi bốn chân, hoặc có cánh đều là bạn
Không con vật nào được mặc áo quần
Không con vật nào được ngủ trên giường
Không con vật nào được uống rượu
Không con vật nào giết con vật nào
Mọi con vật sinh ra đều được bình đẳng


Tên nông tại vốn là “Manor Farm” được đổi thành “Animal Farm”. Cuộc cách mạng phát triển nhanh chóng tới các trại súc vật khác. Mọi con vật hăng hái, phấn khởi làm việc trong niềm hy vọng ở một cuộc sống mới tự do, no ấm và bình đẳng. Nhưng một thời gian ngắn sau, mọi việc dần dà biến đổi. Sản xuất nghe nói đuợc tăng gia, nhưng sữa bò thường bị biến mất thay vì được chia đồng đều. Trái cây rụng trong vườn nho cũng không được phân phối. Hóa ra, tất cả đều được để dành cho những con heo lãnh đạo. Dần dà, đám heo lãnh đạo dời vào ở nhà của chủ nhà cũ là Jones. Chúng ăn ở trong bếp và ngủ trên giường. Giải thích về những chuyện trái với những điều cam kết, con heo Squealer cho rằng những điều đó không có gì sai trái và ích kỷ cả. Vì nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, những con heo làm nhiều việc khó khăn hơn, nhọc nhằn hơn các công việc nông trại như là “hồ sơ”, “biên bản”, “báo cáo”… và do đó cần được bồi dưỡng thêm để có sức khỏe mà phục vụ cách mạng.

Không lâu sau, hai con heo cầm quyền tranh chấp, kết quả là Snowball phải ra đi. Quyền hành thu tóm trong tay Napoleon. Với quyền hành đó, Napoleon bắt đầu dùng chính sách đàn áp và bỏ đói để cai trị. Hắn ta bắt đầu sống trong xa hoa, sa đọa một cách công khai. Bảy điều cam kết từ lúc bắt đầu cách mạng lần lượt được sửa đổi cho phù hợp với ý muốn của Napoleon. Khi Napoleon giết người thì điều thứ 6 được đổi thành “Không con vật nào được giết con vật nào nếu không có lý do”. Khi Napoleon uống rượu thì điều thứ 5 được đổi thành “Không con vật nào được uống rượu quá độ”. Tóm lại, bất cứ điều gì cũng có thể được giải thích một cách hợp lý, cho dù chúng mâu thuẫn nhau hay chúng không phù hợp với sự thật.

Nhiều năm về sau, hầu hết mọi con vật thời cách mạng đều đã lần lượt chết, chỉ trừ một vài con như con ngựa cái Clover, con lừa đực Benjamin, con quạ Moses và một số con heo. Trại Súc Vật giờ thì đông đúc, nhưng hầu hết đều là thế hệ sau hoặc là từ các nơi khác đến. Không mấy ai nhớ gì về thời gian cách mạng. Trại mỗi ngày mỗi ổn định, nhưng đời sống các con vật vẫn vất vả. Chúng không biết là đời sống bây giờ so với trước cách mạng, cái nào hơn cái nào. Chúng chỉ biết tuân lệnh, không có ý kiến gì. Vì chúng chẳng biết gì hơn để mà có ý kiến. Tất cả những thông tin đều do những con heo cung cấp. Ngoài chuyện cắm cúi làm việc hàng ngày, chúng chỉ còn một điều: niềm hy vọng. “Nếu chúng đói thì không phải vì chúng phải nuôi những con người độc đoán; nếu chúng làm việc nhọc nhằn, ít nhất thì chúng cũng làm việc cho chúng. Không có sinh vật nào trong chúng đi bằng hai chân. Không có sinh vật nào phải gọi con khác là ‘Chủ’. Tất cả mọi con vật đều bình đẳng”.

Một buổi chiều đẹp trời nọ, khi đám súc vật đang trên đường trở về trại sau một ngày làm việc nhọc nhằn thì bỗng nghe có tiếng ngựa hí bất thường từ ngoài vườn. Tất cả đều dừng lại chờ xem. Và chúng vô cùng sửng sốt chứng kiến một cảnh tượng khác thường, chưa hề nhìn thấy bao giờ: một đoàn thú vật gồm toàn heo và chó – những phần tử lãnh đạo trại - nối đuôi nhau bước đi, và bước đi bằng hai chân sau, con nào con nấy tỏ vẻ phấn khởi. Cuối đoàn là con heo lãnh tụ Napoleon, hai chân sau thẳng đứng, hiên ngang bước đi, đầu ngẩng cao hãnh diện nhìn ngang nhìn ngửa với một đoàn chó tùy tùng nhảy nhót reo vui. Đúng lúc đó, bỗng nhiên bầy cừu, nhận hiệu lệnh từ đâu đó, đồng thanh hát to một bài ca mới sáng tác:
“Đi bốn chân là tốt, đi hai chân lại tốt hơn! Đi bốn chân là tốt, đi hai chân lại tốt hơn! Đi bốn chân là tốt, đi hai chân lại tốt hơn!”

Bài hát là một phủ nhận điều cam kết số Một. Hay nói một cách khác, đám lãnh tụ cách mạng bốn chân bây giờ muốn làm Con Người đi hai chân. Bài hát được lập đi lập lại cho đến khi những con heo vào hẳn trong trại. Trong lúc đó, ở bên ngoài “Benjamin cảm thấy như có lỗ mũi của ai cọ cọ vào vai. Hắn nhìn lui. Hóa ra là Clover. Mắt ả trông mờ đi hơn bao giờ hết. Không nói một lời, ả kéo nhẹ chiếc bờm của hắn và dẫn hắn đi vòng tới cuối nhà kho lớn, nơi mà Bảy Điều Cam Kết được viết lên. Khoảng một hay hai phút, chúng nhìn sửng vào bức tường nền đen với chữ trắng viết lên trên.
Cuối cùng, ả nói: “Mắt tôi giờ quá tệ. Hồi còn trẻ tôi chẳng hề đọc xem thử họ viết cái gì trên đó. Nhưng giờ tôi thấy bức tường trông có vẻ khác đi. Thế thì Bảy Điều Cam Kết ngày xưa không biết có còn như cũ không vậy, Benjamin?”
Lần đầu tiên, Benjamin bằng lòng phá lệ và hắn đọc cho ả nghe những giòng chữ trên bức tường. Giòng chữ như sau: TẤT CẢ MỌI CON VẬT ĐỀU BÌNH ĐẲNG. NHƯNG MỘT VÀI CON THÌ BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC”


Thế nghĩa là Bảy Điều Cam Kết từ ngày cách mạng thành công, bây giờ chỉ còn lại một, là điều thứ bảy, nhưng thêm một câu, khiến cho nó mang một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn: chỉ có những kẻ lãnh đạo mới được bình đẳng.

Thế là, sau một thời gian huy động hết năng lực của đám súc vật chống lại con người và lao động cật lực để xây dựng thành công “Trại Súc Vật”, cuối cùng, lãnh tụỳ Napoleon đàm phán với con người, bỏ lốt heo để trở thành người, đưa tới liên minh Người-Vật. Trại được đổi ngược lại tên cũ là Manor Farm. Trong đoạn kết, Animal Farm kể lại một buổi nhậu giữa Napoleon và Người trong quá trình thương thuyết một hợp đồng làm ăn mới. Hai kẻ thù không đội trời chung bây giờ ngồi nhậu nhẹt say sưa và đánh bài với nhau trong khi bên ngoài, đám súc vật khép nép nhìn vào:
“Bên ngoài, những con vật nhìn từ heo đến người và từ người đến heo rồi lại từ heo đến người; rốt cục, bọn chúng không thể nào phân biệt được ai là heo ai là người”.

Animal Farm cho thấy tiến hóa của một cuộc cách mạng, khởi đầu từ một nhóm người ưu tú đi đến chỗ một cá nhân thâu tóm mọi quyền hành, độc quyền lãnh đạo, qua đó, ta có thể tìm thấy đầy đủ các khuôn mặt cũng như những biến cố chính đã xảy ra ở Liên Xô: từ Lenin, Stalin, Trosky đến cuộc nổi loạn Kronstadt, chính sách tuyên truyền chính trị, kiểm duyệt báo chí, nạn thiếu đói, các kế hoạch ngũ niên, việc tập thể hóa cưỡng bức, nạn đói năm 1932 ở Ukraina, đồng minh tiền-Đệ Nhị Thế Chiến Hitler-Stalin, hiệp định Molotov-Ribbentrop, vân vân. Nhưng tại sao Orwell lại dùng hình thức ngụ ngôn? Nói khác đi, tại sao ông lại dùng những con heo để tượng trưng cho Stalin và Trosky? Chuyện khá đơn giản. “Trên đường trở về từ Tây Ban Nha tôi nghĩ đến việc trình bày huyền thoại Sô Viết trong một câu chuyện dễ hiểu đối với mọi người và dễ dịch sang các ngôn ngữ khác. Tuy nhiên những chi tiết trong câu chuyện chỉ đến với tôi khi vào một ngày nọ (lúc đó tôi sống trong một ngôi làng nhỏ), tôi nhìn thấy một chú bé khoảng chừng mười tuổi, lái một chiếc xe ngựa lớn đi vào một lối đi hẹp, vun vút quất roi vào con ngựa mỗi khi nó cố quay sang đường khác. Điều đó khiến tôi suy nghĩ rằng nếu những con vật như thế mà biết được sức mạnh của chúng thì chúng ta không thể nào đè ép chúng được và rằng con người lợi dụng con vật theo các cách chẳng khác gì người giàu lợi dụng giai cấp vô sản. Tôi tiếp tục phân tích lý thuyết của Marx từ quan điểm của những con vật”, Orwell giải thích. (7)

Biến chuyện chính trị lớn lao thành một câu chuyện ngụ ngôn mà trẻ con có thể đọc được (ở Hoa Kỳ Aminal Farm được đưa vào chương trình đọc sách mùa hè – Summer Reading - của học sinh lớp 9) khiến cho những chuyện trái khoáy trong chính trị trở thành khôi hài hơn nhưng đồng thời cũng khiến ta có cảm giác cay đắng hơn và chua chát hơn; do đó, gây hiệu quả tâm lý cao hơn. Nhất là khi mà chúng ta đối chiếu chúng với những biến cố có thực bên ngoài xảy ra trong xã hội Cộng Sản. Mặt khác, chúng lại giúp giải thích được bản chất của các hiện tượng đó. Sống trong xã hội Cộng Sản rồi, chúng ta sẽ “ngộ” ra ngay cái cảnh thay đổi những điều cam kết đi kèm theo những giải thích “lấy được” của bộ phận tuyên truyền: thay trắng đổi đen trở thành chuyện bình thường, thậm chí trở thành chân lý. Từ “bốn chân tốt hai chân xấu” đi đến “bốn chân tốt, hai chân tốt hơn” dường như không có gì khác nhau trong một xã hội toàn trị, trong đó ngôn ngữ không còn được dùng để biểu đạt hiện thực mà chỉ để biểu đạt ý muốn của chủ thể. Hiện thực phục vụ cho ngôn ngữ và được đúc cho vừa cái khuôn ngôn ngữ tuyên truyền.

Sự thất bại của cách mạng bắt đầu từ chỗ: người bị áp bức muốn trở thành kẻ áp bức mới. Mầm mống của sự phá hủy cách mạng nằm ngay trong chính cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng của đám súc vật thất bại không phải vì con người phản công mà chính vì “bản chất người” nằm ngay trong con vật. Chúng muốn biến thành người, nghĩa là thành kẻ áp bức mà chúng muốn lật đổ. Có thể nói Animal Farm là lời than khóc cho một cuộc cách mạng bị thất bại, than khóc cho sự phá hủy tự do diễn đạt nghệ thuật và tất cả những hy vọng gắn liền với thời kỳ đầu của cuộc cách mạng. Tóm lại, đó là lời than khóc cay đắng về sự hư hỏng của lý tưởng do quyền lực gây nên.

Khi đề cập đến hợp đồng giữa Napoleon và con người trong đoạn cuối của Animal Farm, nhiều nhà phê bình cho rằng Orwell tin tưởng có sự hòa giải giữa các nước tư bản Tây phương và Liên Sô. Sau này, ông thú nhận là ông viết đoạn đó khi đang diễn ra hội nghị Teheran (8), trong đó Mỹ, Anh và Nga bàn đến chuyện sống chung hòa bình. Nhưng rồi hội nghị Teheran thất bại , dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh sau này. Phải chăng thất bại của hội nghị Teheran đã góp phần đưa đến sự hình thành Nineteen Eighty-Four?

****
Nineteen Eighty-Four (1984) là một truyện dài như bất cứ một tiểu thuyết nào khác. Nhưng ngoài câu chuyện chính ra, nó có thêm hai phần khác bổ sung: một là cuốn sách có tựa đề là “The Theory and Pratice of Oligarchical Collectivism” được xem là của Emmanuel Goldstein, thủ lãnh của Brotherhood là tổ chức bí mật chống lại Đảng và nhà nước. Cuốn sách lý giải tình hình thế giới, quan niệm về chiến tranh và chính sách thống trị nhân dân của Đảng; hai là phần phụ lục gọi là “The principles of Newspeak”, giải thích cách sử dụng từ ngữ mới nằm trong cuốn tự điển do Đảng biên soạn.

Truyện mô tả một thế giới bị chi phối bởi ba siêu cường quốc: Eurasia, Eastasia và Oceania. Oceania luôn luôn sống trong tình trạng chiến tranh với hai siêu cường kia, đẩy toàn thế giới ở trong một tình trạng thù hận, cô lập và sợ hãi. Nhân vật chính là Winston Smith, 39 tuổi, một nhân viên làm việc cho Bộ Sự Thật, trú sở tại London, thuộc siêu cường Oceania. Xứ sở được cai trị bởi Đảng và nhà lãnh tụ nắm giữ quyền hành tuyệt đối có tên là Big Brother, mà khuôn mặt của ông ta hiện diện khắp nơi trên các tấm pa-nô tuyên truyền lớn với giòng chữ "Big Brother Is Watching You" (Big Brother đang theo dõi bạn). Điều đó nhắc nhở mọi người rằng bất cứ những việc anh làm, dù khi ngủ hay thức, khi ăn hay làm việc, ở trong nhà anh hay ở bên ngoài, trong phòng tắm hay trên giường ngủ…, Đảng luôn luôn theo dõi anh. “Không có gì là phần riêng tư của anh ngoại trừ một ít phân khối nằm bên trong cái sọ của anh”. (9)

Nhà độc tài kiểm soát đất nước bằng bốn bộ: Hoà Bình, Tình Yêu, Thịnh Vượng và Sự Thật. Chức năng của bốn bộ này là một nghịch lý: bộ Hoà Bình thì đảm nhiệm chiến tranh, bộ Tình Yêu thì phụ trách chuyện hành hạ, bộ Thịnh Vượng thì chuyên lo về bỏ đói và bộ Sự Thật thì đảm trách chuyện nói láo. Tất cả những gì lưu trữ trong Bộ Sự Thật, nơi Winston làm việc, đều không mảy may liên hệ gì đến thực tại bên ngoài. Chúng được hoàn toàn dựng nên bởi Đảng, nghĩa là bằng sự dối trá. Vì không còn tài liệu nào khác ngoài chúng nên chúng nghiễm nhiên đi vào lịch sử và trở thành sự thật. Bộ Sự Thật không những chỉ lo thay đổi hiện tại mà còn tiêu hủy cả quá khứ. Ai kiểm soát được quá khứ, sẽ kiểm soát được tương lai: ai kiểm soát được hiện tại sẽ kiểm soát quá khứ. Đó là khẩu hiệu của Đảng.

Hãy nghe Winston giải thích điều này với Julia, người yêu của anh “Em có biết rằng quá khứ, mới bắt đầu từ hôm qua thôi, là đã bị tiêu hủy rồi không? Nếu nó có còn tồn tại một nơi nào đó thì chỉ là một vài đồ vật mà chẳng có ghi lại chữ nghĩa gì cả, giống như mảnh thủy tinh bể nằm kia kìa. Chúng ta nào có biết gì về Cách Mạng và những năm trước Cách Mạng đâu. Mỗi một hồ sơ đã bị tiêu hủy hoặc thay đổi, mỗi một cuốn sách đều được viết lại, mỗi một hình ảnh đều được vẽ lại, mỗi một bức tượng và đường phố và lâu đài đều được đặt tên lại, mỗi một ngày tháng đều được sửa đổi. Tiến trình đó cứ diễn ra liên tục ngày này qua ngày khác, phút này qua phút khác. Lịch sử đã ngừng lại. Không có gì hiện hữu ngoài một hiện tại không ngừng nghỉ qua đó Đảng luôn luôn đúng”. (10)

Bộ Thịnh Vượng cũng thế, chuyên môn công bố những bản thống kê hoang đường. Lúc nào trong báo cáo, đại khái cũng đều một kiểu: so sánh với năm trước, thì đất nước luôn luôn sản xuất được nhiều thực phẩm hơn, nhiều áo quần hơn, nhiều nhà cửa hơn, nhiều đồ dùng hơn, nhiều tàu thủy, tàu bay, nhiều sách vở hơn, vân vân. Nghĩa là từng năm, từng tháng thậm chí từng phút, mọi người và mọi vật đều gia tăng, trong lúc đời sống thực sự thì giảm xuống.

Đảng lo tất cả mọi nhu cầu hàng ngày của cuộc sống cá nhân, từ ăn, mặc cho đến các sinh hoạt khác đồng thời theo dõi sát từng cử chỉ và tư tưởng của mỗi một cá nhân bằng những màn ảnh viễn vọng, những máy ghi âm dấu kín và gián điệp ở khắp mọi nơi. Cảnh Sát Tư Tưởng, bộ phận bí mật của Big Brother, có nhiệm vụ phát hiện bất kỳ một âm mưu nổi loạn chống nhà nước nào. Winston không chịu đựng được không khí ngột ngạt đó, nuôi ý đồ chống lại Big Brother. Anh bí mật mua một cuốn sổ nhật ký, thứ sản phẩm cũ xưa từ cả 40 năm trước còn sót lại và ghi chép chuyện này chuyện nọ nhằm lưu giữ những gì đang xảy ra cùng ghi lại những màn độc thoại nội tâm liên tục diễn ra trong đầu óc anh năm này qua năm khác. Câu đầu tiên anh ghi vào đó là "Hạ bệ Big Brother". Anh âm thầm tìm hiểu và ghi lại các bí mật của xã hội, nhất là thời kỳ trước cách mạng mà Đảng tìm cách xóa bỏ cũng như những biến cố và người vào thời tuổi trẻ của anh.

Anh còn nhớ một tai nạn khi gia đình đang rất đói. Lúc đó cả nhà chỉ còn một mẩu sô cô la nhỏ được mẹ đem chia cho anh và đứa em gái đang hấp hối. Đói quá, anh ăn phần của anh và giựt luôn mẩu sô cô la từ em anh. Cô bé khóc. Người mẹ ôm cô trong tay và cố dỗ dành. Winston thấy hành vi đó, tuy chẳng có hiệu quả gì, nhưng đầy tình nhân ái. “Nó vô ích, nó không thay đổi được gì hết, nó không sản xuất ra thêm sô cô la, nó không làm cho cô bé khỏi chết; nhưng dường như bà làm thế là vì phải làm như thế” Hành vi đó khiến Winston nhớ lại cảnh trong một phim chiến tranh: một bà mẹ ôm đứa con trong lòng cố che cho nó khỏi bị trúng đạn dù biết rằng đó là một chuyện vô ích. Hai hành vi này, với Winston, chúng chẳng có giá trị chính trị nào cả, nhưng cho anh manh mối của lòng nhân ái. Anh biết rằng không bao giờ cảm thấy một hành vi vô ích sẽ trở thành vô nghĩa. “Nếu bạn yêu một ai đó, là vì bạn yêu người đó, và khi bạn không còn gì hết để cho, bạn vẫn cứ còn yêu người đó”. (11)

Quan điểm anh được vài người chia xẻ, trong đó có Julia, người yêu vụng trộm của anh, ông Charrington, người bán cho anh cuốn nhật ký và O'Brien, người làm cùng sở với anh. Họ gặp nhau và thảo luận về việc gia nhập tổ chức bí mật "Brotherhood" có mục đích lật đổ nhà độc tài. O'Brien cho Winston biết anh ta là người của nhóm bí mật và tuyển anh và Julia vào nhóm. Để củng cố thêm lập trường chống Đảng, Obrien cho Winston mượn cuốn sách “The Theory and Pratice of Oligarchical Collectivism” gọi là của thủ lãnh “Brotherhood” tên là Emmanuel Goldstein. Winston say sưa đọc và hiểu được nhiều điều sâu xa hơn trong đường lối thống trị thâm độc của Đảng.

Nhưng hóa ra, Charrington là một cảnh sát tư tưởng còn O'brien là thành viên cao cấp của Đảng. Và cuốn sách mà anh ta cho Winston mượn cũng là do Đảng viết ra nhằm dụ những kẻ chống đối Đảng như Winston xuất đầu lộ diện. Winston và Julia bị bắt. Cả hai trải qua một quá trình tẩy não. Lúc đầu Winston tỏ ra kiên cường, không chịu khuất phục. Nhưng dần dà, do tra tấn, anh đành chịu thua, phản bội cả người tình và tất nhiên, phản bội cả lý tưởng của anh. Khi được tạm thả sau khi bị tẩy não, anh chạy đi tìm Julia. Nàng thú nhận rằng nàng cũng đã phản bội anh. Anh cảm thấy không còn ham muốn nàng nữa và thay vì ở với nàng, anh đi kiếm một chỗ trong quán cà phê. Lúc đó, màn ảnh viễn vọng loan báo tin về chiến thắng cuối cùng của Big Brother trong cuộc chiến tranh. Anh khóc lên vì sung sướng: Đảng đã hoàn toàn kiểm soát được anh. Cuối cùng "Anh đã yêu Big Brother" (He Loved Big Brother).

1   2