Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011
Vấn đề tranh chấp biển Đông - Đài Loan toan tính điều gì?
Trương Nhân Tuấn
Bộ ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan, hôm 17 tháng 4 đã ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Trung Hoa đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển Đông, cùng vùng biển chung quanh, ngay sau cuộc hội đàm chính thức giữa lãnh đạo quốc phòng cấp cao Trung Quốc và Việt Nam từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 4 năm 2011 tại Hà Nội kết thúc. Ngày hôm sau, 18 tháng 4, bộ Quốc Phòng Đài Loan cũng tuyên bố sẽ củng cố lực lượng phòng thủ đảo Thái Bình (Ba Bình) và Trung Sa (Pratas) bằng các đơn vị Thủy quân lục chiến, thay vì lực lượng tuần duyên như trước đây. Cuộc hội đàm cao cấp quốc phòng, phía Trung Quốc gồm tướng Guo Boxiong (Quách Bá Hùng), Phó chủ tịch quân ủy trung ương, cùng phái đoàn quân sự cấp cao, phía Việt Nam gồm Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, ông Phùng Quang Thanh. Tướng Quách Bá Hùng nhân dịp này cũng gặp gỡ quí ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nội dung cuộc hội đàm, ghi lại từ nhiều phía, cho thấy có nhiều điều khác biệt.
Theo Tân Hoa Xã : « Đồng chí Quách Bá Hùng đã nêu đề nghị 3 điểm về phát triển quan hệ quân đội hai nước Trung-Việt: Một là, tăng cường tiếp xúc chiến lược, nắm vững định hướng đúng đắn phát triển quan hệ Trung-Việt; hai là, coi trọng tuyên truyền hướng dẫn, tích cực tạo bầu không khí hữu nghị, đoàn kết, hợp tác Trung-Việt; ba là, làm phong phú nội dung giao lưu, nỗ lực nâng cao trình độ hợp tác thiết thực giữa quân đội hai nước. » Bản tin này không hề nói đến chủ đề tranh chấp biển Đông.
Theo báo chí Việt Ngữ, nội dung đàm phán có các vấn đề : giải quyết tranh chấp biển Đông và việc hợp tác quân sự song phương.
Theo tin từ nguồn Chính Phủ VN, dẫn từ TTXVN, trích lời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhân dịp tiếp đón ông Quách Bá Hùng, về vấn đề tranh chấp biển Đông : « đề nghị hai bên cùng nhau đàm phán, thảo luận hòa bình để tìm ra những giải pháp mang tính cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. » Bản tin này ghi nhận « một thỏa thuận được hai bên ký kết nhằm mục đích hợp tác đào tạo năm 2011 ». So sánh ở hai bản tin TTX VN và Tân Hoa Xã, ta thấy phía Trung Quốc đặt nặng vấn đề tâm lý quốc phòng, vì họ không muốn thấy dư luận VN thù nghịch với họ. Trong khi VN dường như muốn sử dụng vấn đề hợp tác quốc phòng với TQ như là một điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp biển Đông. Việc này VN cũng đang làm tương tự với Hoa Kỳ. Như thế, ở các điểm mấu chốt, vấn đề tranh chấp biển Đông, phía VN đã được giao cho phe quốc phòng, thay vì do phe ngoại giao phụ trách, như thường lệ trước đây hay thường thấy ở các nước khác.
Nhưng theo thông tin của chính phủ Đài Loan, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố nhân dịp này Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết một « thỏa thuận về hợp tác chặt chẽ nhằm phát triển các biện pháp cơ bản cho các vấn đề đã thảo luận ». Các vấn đề thảo luận ở đây dĩ nhiên là hai vấn đề : tranh chấp biển Đông và việc hợp tác quân sự song phương. Nguồn tin này cũng cho biết phía Phi Luật Tân cũng đã cực lực phản đối tuyên bố này của Nguyễn Tấn Dũng. Dĩ nhiên việc này của cũng là nguyên nhân tuyên bố của Đài Loan về chủ quyền các đảo HS và TS. (Nguồn : http://taiwaninfo.nat.gov.tw/ct.asp?xItem=160218&CtNode=458&htx_TRCategory=&mp=4 ).
Báo chí Việt Ngữ hải ngoại như BBC và RFA, ngoài việc đưa tin tức về tuyên bố của Đài Loan về việc tái khẳng định chủ quyền các đảo HS và TS tại biển Đông, cũng đã đăng bài phỏng vấn các nhận định của học giả Việt Nam về thái độ của Đài Loan qua việc đảo quốc này tuyên bố khẳng định chủ quyền. Nhưng không thấy nguồn tin nào đề cập đến thỏa thuận giữa hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết như nguồn tin của Đài Loan đã dẫn.
Ta thấy việc loan tin cùng một vấn đề, ở đây là nội dung của cuộc đàm phán, đã được cơ quan ngôn luận các bên loan tải theo lối « có lợi cho phe mình », không bên nào phù hợp với bên nào. Báo chí bám lề trong nước dĩ nhiên chỉ đăng những tin mà nhà nước muốn phổ biến. Còn báo chí tự do thì chỉ nói đến những thứ độc giả thích đọc. Lý ra, điều cần tìm hiểu là bản tin của chính phủ Đài Loan có đúng với sự thật hay không ? nếu đúng thì việc « phát triển các biện pháp cơ bản » (cho việc giải quyết tranh chấp biển Đông giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc) sẽ như thế nào ? Việc hợp tác quốc phòng hai bên sẽ được nâng cao lên đến trình độ nào ? Những vấn đề mấu chốt của đàm phán thì không thấy báo chí nào bàn đến. Xem chừng các việc này thuộc về « bí mật quốc phòng », do đó việc đi tìm sự thật trên các mặt báo sẽ là điều không tưởng.
Việc Đài Loan khẳng định chủ quyền tại các đảo ở biển Đông không phải là điều mới mẻ. Nếu chỉ nhắc những việc gần đây, ngày 04 tháng 02 năm 2009, Đài Loan ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của họ đối với các đảo ở biển Đông. Việc lên tiếng này sau khi lưỡng viện quốc hội Philippines lần lượt vào các ngày 28 tháng 1 và 2 tháng 2 thông qua luật sáp nhập các đảo nhỏ và rặng san hô thuộc quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ của họ. Các động thái của Đài Loan trên đảo cũng không phải là hiếm hoi. Tháng 2 năm 2008, tổng thống Trần Thủy Biển đã đáp phi cơ ra đảo Ba Bình. Trước đó, Đài Loan cũng đã cho xây một phi đạo dài 1150m, bất chấp phản đối của các nước có tranh chấp như VN và các nước khác. Việc này xem ra còn hệ trọng hơn cả việc thay thế đội phòng thủ duyên hải bằng quân Thủy quân lục chiến. Trong khi đó, thực ra việc đổi quân này nằm trong kế hoạch hiện nay của tổng thống Mã Anh Cửu là « chuyên nghiệp hóa » quân đội Đài Loan. Gần nhất, tháng 3 năm 2011, Đài Loan còn cho hải quân tập trận bằng đạn thật tại vùng biển chung quanh đảo Ba Bình.
Dầu vậy, nhân việc dư luận Việt Nam đang chú tâm đến phản ứng của Đài Loan, qua việc báo chí thổi phồng sự kiện, nhân đảo quốc này tái khẳng định chủ quyền tại HS và TS, tác giả bài viết này sẽ thử đưa một cái nhìn khác, về thái độ chính trị của Đài Loan trước những động thái của các nước liên quan đến vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo HS và TS cũng như vùng nước chung quanh, đồng thời điểm qua sách lược an ninh quốc phòng của đảo quốc này về các đảo ở biển Đông.
Theo người viết, phản ứng của Đài Loan mới đây về HS và TS nhằm hai mục đích : 1/ Củng cố quốc phòng tại các đảo Trung Sa và Thái Bình (tức Ba Bình) nhằm phòng ngừa các phản ứng sắp tới của Trung Quốc sau khi chiếc hàng không mẫu hạm (nghe nói đặt tên là Thi Lang) vừa hạ thủy tại cảng Đại Liên và sẽ được đưa vào hoạt động vào tháng 11 tới tại vùng biển Đông. 2/ Động thái chính trị của Tổng thống Mã Anh Cửu, thuộc Quốc Dân Đảng, nhằm vào việc bầu cử Tổng thống và Quốc hội vào tháng 2 năm 2012 sắp tới.
1/ Sơ lược lịch sử : Đối với quần đảo Trường Sa, chưa bao giờ Trung Quốc bày tỏ yêu sách trong suốt thời kỳ Việt Nam thuộc Pháp. Ngày 23-9-1930 Pháp ra thông báo cho các nước biết việc Pháp chiếm hữu quần đảo Trường Sa. Trung Quốc không có phản ứng gì về tuyên bố chủ quyền này của Pháp. Ngày 21 tháng 12 năm 1930 một nghị định sát nhập các đảo thuộc Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Lý do chính mà phía Đài Loan đưa ra nhằm chứng minh chủ quyền của Đài Loan tại Trường Sa là do yếu tố lịch sử : người Nhật đã chiếm quần đảo Trường Sa và sát nhập các đảo này vào Đài Loan. Sau khi Nhật thất trận 1945 phải trả lại các vùng lãnh thổ mà họ chiếm trước chiến tranh, do yếu tố liên tục quốc gia, các đảo Trường Sa thuộc về Đài Loan. Nhưng việc chiếm đóng của Nhật ngày 31 tháng 3 năm 1939 thì không hợp lệ, ngày 4-4 Pháp đưa ra phản đối. Nhật đã chiếm một lãnh thổ từ lâu đã có chủ. Từ thời điểm đó, Nhật đã cho một số quân gốc Đài Loan đến giữ đảo.
Sau Thế chiến thứ II, Nhật bại trận, số phận các vùng lãnh thổ do Nhật chiếm trước đó được xác định qua Hòa ước San Francisco 1951. Về các điều khoản liên hệ đến lãnh thổ của Hòa ước San Francisco (điều 2), Nhật phải từ bỏ mọi đòi hỏi chủ quyền tại: (a) Triều Tiên, và công nhận nền độc lập của xứ này, (b) đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, (c) quần đảo Kouriles và phần đảo Sakhaline cũng như các đảo khác đã nhượng cho Nhật qua Hiệp ước Portsmouth năm 1905, (d) tại các đảo đã được giao cho Hội Quốc Liên quản lý và theo quyết định của Hội đồng Bảo an ngày 2 tháng 4 năm 1947, e/ vùng Bắc cực, (f) các quần đảo Spratly (Trường Sa) và quần đảo Paracels (Hoàng Sa).
Như thế, ngoại trừ Triều Tiên và các đảo đã được Hội Quốc Liên quản lý trước đó đã được xác định rõ số phận, các đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, quần đảo Kouriles và phần đảo Sakhaline, vùng Bắc cực và các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì không xác định là sẽ giao cho nước nào quản lý.
Một số giải pháp về số phận các vùng đất nói trên được đề nghị tại hội nghị như sau:
(a) Các vùng đất đó thuộc quyền quản lý của tất cả các nước có tuyên bố chiến tranh với Nhật, tức hình thức "cộng đồng quản lý" (condominium). Việc chuyển nhượng chủ quyền trên thực tế đã được thực hiện trong lúc Nhật ký kết Tuyên bố Potsdam đầu hàng vô điều kiện. (Phía Pháp có hai lập trường. Lập trường thứ nhất chia sẻ đề nghị này. Lập trường thứ hai là đề nghị (c) phía dưới).
(b) Các vùng đất này thuộc quyền quản lý của các nước ký kết vào Hòa ước. Đề nghị này bị Liên Xô chống đối; Ấn Độ và hai nước Trung Hoa thì đòi hỏi "cộng đồng quản lý" trên những vùng lãnh thổ của Nhật.
(c) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ (terrae derelictae).
(d) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ, người ta có thể chiếm hữu. Điều này hàm ý, những nước tham chiến đang chiếm đóng tạm thời tại các vùng lãnh thổ đó có thể chiếm đóng vĩnh viễn và tuyên bố chủ quyền.
Rốt cục đề nghị (d), là đề nghị của phái đoàn Pháp, đã được mặc nhiên chấp thuận. Tức là phe lâm trận nào chiếm ở đâu thì sẽ tuyên bố chủ quyền ở đó.
Do đã toan tính trước, Pháp liền ký kết với Trung Hoa Hiệp ước Trùng Khánh (Tchong Quing) ngày 28 tháng 2 năm 1946. Theo đó quân đội Trung Hoa sẽ rời Việt Nam từ ngày 1 đến ngày 15 tháng 3 năm 1946 để quân Pháp vào thay thế. Đổi lại, Pháp tuyên bố hủy bỏ tất cả các quyền lợi và tô giới của Pháp tại Trung Hoa đồng thời cam kết dành sự ưu đãi về kinh tế cho Trung Hoa, như nhượng tuyến đường xe lửa Vân Nam – Hải Phòng, dành ưu đãi về kinh tế, kiều dân Trung Hoa sống tại Việt Nam được hưởng qui chế ưu đãi đặc biệt.
Trong khi đó, phía nam vĩ tuyến 16, vì lý do chiến lược, Anh cũng đồng ý nhượng quyền lại cho Pháp.
Theo hiệp ước đã ký với Trung Quốc và thỏa thuận với Anh, sau khi quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa năm 1946, Pháp đã gởi quân đến các đảo này để khẳng định chủ quyền. Tại Hoàng Sa và Trường Sa, quân đội Pháp-Việt đã có mặt từ tháng 5 năm 1946. Đến tháng 10-1946, quân Pháp ra đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa, đóng mốc mới, khẳng định lại chủ quyền.
Mặt khác, tại Hội nghị San Francisco, đại diện Quốc gia Việt Nam là ông Trần Văn Hữu, đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này và không bị một sự chống đối nào. Việt Nam tham gia hội nghị với tư cách một nước độc lập, có tuyên chiến với Nhật, do đó có tư cách pháp nhân để đưa ra ý kiến của mình về số phận các vùng đất mà Nhật Bản đã buộc bị từ bỏ. Việt Nam đã ký kết Hòa ước, Nhật Bản cam kết bồi thường cho Việt Nam 39 triệu đô la tương đương giá trị hàng hóa và công trình xây dựng. Nếu việc bồi thường đã chấp thuận thì việc tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa đương nhiên là có giá trị pháp lý. Nhưng vấn đề là lúc đó Việt Nam không có khả năng tiếp thu hai quần đảo này từ tay Nhật. Vì thế thái độ của Pháp - mặc dầu chỉ vì quyền lợi của Pháp - vô tình cũng có lợi cho Việt Nam, vì Pháp đại diện cho Việt Nam đã tiếp thu, tuyên bố chủ quyền và chiếm đóng thực sự trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hòa ước San Francisco không có sự hiện diện của hai phe Trung Hoa. Do đó, hội nghị chấp nhận để Nhật có toàn quyền lựa chọn phe để ký hòa ước. Rốt cục Nhật đã chọn phe Trung Hoa Dân quốc để ký hòa ước. Hòa ước Trung-Nhật được ký tại Đài Bắc ngày 28-4-1952, trong đó khoản nói về lãnh thổ được lặp lại nguyên văn nội dung điều (2) của Hòa ước San Francisco: Nhật từ bỏ chủ quyền tại các đảo Đài Loan, Bành Hồ, Hoàng Sa, Trường Sa nhưng không xác định là trả cho phe nào.
Phe Tưởng Giới Thạch sau khi ký Hiệp ước Trùng Khánh với Pháp tháng 3 năm 1946, đồng ý để cho Pháp thay thế mình trong việc giải giới quân Nhật ở các vùng phía bắc vĩ tuyến 16, vài tháng sau mới thấy bị hớ. Do đó họ tìm cách đổ quân lên đảo Phú Lâm thuộc nhóm An Vĩnh của quần đảo Hoàng Sa, hy vọng giành lại quần đảo này từ tay Pháp. Nhưng những hành động này, như việc đổ quân chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa đều trái công pháp quốc tế, vì đây là hành động xâm chiếm một vùng đất đã có chủ quyền.
2/ Ưu tiên chiến lược của Đài Loan: An ninh quốc phòng.
Một điều không thể chối cãi, ưu tiên trên mọi ưu tiên hiện nay của Đài Loan là vấn đề an ninh quốc phòng. Đài Loan còn hiện hữu trên thế giới như là một đảo quốc độc lập hay không là do tương quan lực lượng quốc phòng giữa đảo quốc này với Trung Hoa lục địa. Dưới sự đe dọa thường xuyên và ngày càng nặng nề của lục địa về một khả năng thống nhất bằng vũ lực, an ninh quốc phòng do đó là một ưu tiên cao nhất của mọi cấp lãnh đạo, của mọi khuynh hướng chính trị tại đảo quốc. Từ năm 1996 trở lại đây, sinh hoạt chính trị dân chủ tại Đài Loan có làm thay đổi một số chính sách quốc gia về các lãnh vực quan trọng như việc chấn chỉnh vị thế của Đài Loan trên trường quốc tế hay việc phát triển kinh tế. Tùy theo đảng cầm quyền, Quốc Dân đảng hay đảng Dân Tiến, chính sách ngoại giao hay đường hướng phát triển kinh tế có thể thay đổi, nhưng về quốc phòng, cả hai đảng đều ý thức sự đe dọa của Bắc Kinh, do đó về chiến lược phòng vệ cả hai phe đều hầu như đồng ý ở các điều cơ bản.
Chiến lược quốc phòng hiện nay của Đài Loan có thể hiểu qua « sách trắng » công bố năm 2002. (Từ đó đến nay chưa thấy công bố « sách trắng » nào khác về quốc phòng).
Sau khi bị loại ra khỏi Liên Hiệp Quốc năm 1971 và sau khi chứng kiến kinh nghiệm của miền nam Việt Nam 1975, quan niệm quốc phòng của Đài Loan đặt căn bản trên hai nguyên tắc : « Răn đe hữu hiệu và phòng thủ vững chắc ». Trong đó nhiệm vụ bảo vệ đất nước thuộc về toàn dân « quân dân quốc phòng », tin tưởng vào sức mạnh của chính mình « tự lực tự chủ - zili zizhu ».
Sách trắng quốc phòng năm 2002 ghi lại Luật Quốc Phòng (tháng giêng năm 2000) nội dung như sau : « Quốc phòng là trách nhiệm của toàn dân, mọi phương tiện trực tiếp hay gián tiếp để bảo vệ quốc gia như quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý và khoa học kỹ thuật đều được sử dụng ».
Lịch sử chiến lược quốc phòng của Đài Loan có thể tóm gọn qua 3 giai đoạn nhưng mục đích tựu trung chỉ nhắm vào việc phòng thủ. Giai đoạn đầu, sau khi mất lục địa về phe cộng sản 1949, Tưởng Giới Thạch củng cố lực lượng ở Đài Loan và dựa vào Hoa Kỳ vừa để tự vệ, vừa hy vọng đem quân về lục địa đánh đuổi « cộng phỉ ». Giai đoạn này chiến lược quốc phòng của Đài Loan là « tấn công – phòng ngự ».
Đến thập niên 60 mộng ước « quang phục » ngày một xa vời, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cố gắng giữ “nguyên trạng - statu quo”, tức giữ thẩm quyền của mình trên đảo Đài Loan và các đảo Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ, Trung Sa và Thái Bình (tức đảo Ba Bình, thuộc Trường Sa của Việt Nam). Chiến lược quốc phòng là « củng cố - phòng ngự ».
Sau khi Hoa Kỳ cắt đứt ngoại giao năm 1979, các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trên đảo lần lượt đóng cửa và mọi kết ước trước đó giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc kể từ lúc này đều trở thành vô giá trị (caduc). Năm 1982 Hoa Kỳ còn ký kết với Trung-Quốc sẽ giảm dần việc bán vũ khí cho Đài Loan. Để sống còn Đài Loan phải phát triển các cơ sở kỹ nghệ quốc phòng cũng như đi tìm các nguồn bán vũ khí mới. Đây là khuynh hướng « tự lực tự chủ » của Đài Loan. Trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật Trung Sơn (là danh hiệu của Tôn Dật Tiên), xây dựng từ cuối thập niên 60, đã trở thành trung tâm nghiên cứu và sản xuất vũ khí. (Đến năm 2001 số vũ khí sản xuất tại Đài Loan cung cấp cho quân đội chiếm 47,5% ngân sách quốc phòng, tức chiếm 47,2 tỉ nhân dân tệ (ngân sách quốc phòng là 99,6 tỉ NT). Trung tâm Trung Sơn gồm có năm ngành nghiên cứu : hàng không – phi đạn và hỏa tiễn – hệ thống điện tử - khí cụ và hóa chất. Trung tâm sản xuất phi cơ khu trục và các loại chiến hạm do Hoa Kỳ nhượng kỹ thuật. Trung tâm này cũng sản xuất các loại phi đạn và nghiên cứu vũ khí nguyên tử.)
Đến đầu thập niên 90, trước đe dọa mất còn do quyết tâm “thống nhất” của lãnh đạo Bắc Kinh, Đài Loan đưa vào chiến lược quốc phòng quan niệm “dự phòng chiến tranh” nhằm nghiên cứu các khả năng có thể xảy ra chiến tranh. Sách trắng quốc phòng Đài Loan dự phòng 3 trường hợp có thể xảy ra chiến tranh liên quan đến Đài Loan : 1/ Cộng sản từ lục địa xâm lăng Đài Loan. 2/ Việc ly khai, đòi độc lập của các tỉnh trong lục địa (kể cả trường hợp Đài Loan tuyên bố độc lập). 3/ Tranh chấp vùng biển Đông. Cả ba trường hợp này sẽ kéo nhiều nước trong vùng Đông và Đông Nam châu Á vào cuộc chiến.