Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2011
Giòng sông Thanh Thuỷ (Phần III, kỳ 8)
Nhất Linh
Phần thứ ba
Vọng Quốc
Chương ba mươi ba
Thanh và Ngọc lên ngồi riêng một xe cam-nhông. Phía trước chỉ có một quân nhân Mỹ lái xe. Anh em không ai ra tiễn vì sợ lộ. Ngọc mặc áo nhà binh không phù hiệu còn Thanh mặc chiếc áo tàu màu lam xẫm. Khi qua phố hai người ngồi xoay mặt vào trong, đợi khi đi khỏi mấy nhà gần sân bay mới ngửng lên và nhìn nhau mỉm cười. Gió thổi mạnh làm xoã cả tóc Thanh xuống trán. Ngọc cũng bỏ mũ nhà binh ra. Hai người biết là cùng đi đến chỗ chết nhưng trong lòng lại vui hớn hở. Thanh nói:
“Thích quá. Xe Mỹ đưa chúng mình vào Thiên Thai.”
Ngủ trong trại binh Mỹ ở Khai Viễn được già sáu tiếng đồng hồ, ba giờ sau đoàn xe đã khởi hành.
Lúc qua chỗ đèo cao nhỏ hẹp, đường vẫn trơn như năm trước. Thanh lấy tay chỉ xuống vực sâu thẳm. Nàng ngồi lên thành xe rồi ngả người bỏ cả hai tay ra:
“Nhẩy xuống đây một cái thì tới Đào Nguyên ngay.”
Ngọc vội vàng kéo chân Thanh rồi đẩy Thanh một cái ngã vào trong xe. Người tài xế Mỹ thấy tiếng động cất tiếng hỏi. Thanh đáp luôn bằng tiếng Anh:
“Tôi chán đời định nhẩy xuống đây để tự tử nhưng ông này cứ bắt tôi sống để chịu khổ.”
Rồi Thanh rũ ra cười. Người lính Mỹ cũng có tính khôi hài:
“Nếu cô định tự tử thì để tôi mời người lính Tàu này xuống xe rồi tôi chỉ rẽ tay lái sang bên trái. Tôi sẽ cùng cô tự tử vì bây giờ hết chiến tranh, không bao lâu tôi sẽ về nước gặp bà vợ tôi, tôi còn sợ hơn là cả bọn Nhật.”
Thanh đến gần chỗ cửa sổ, lật cái bạt che gió lên rồi nói chuyện với tài xế, mỗi lúc một thân mật hơn. Ngọc kêu Thanh:
“Chị cứ nói chuyện với tài xế, họ đãng trí một tí là chết nghẻo cả ba.”
“Vâng thì thôi vậy, nhưng anh nhát gan lắm.”
Ngọc đâm cáu, nói như ra lệnh:
“Đồng chí phải nhớ là đồng chí ở trong chi bộ tôi. Chưa làm xong phận sự, đồng chí chưa có quyền chết. Tôi cũng vậy.”
Thanh bĩu môi:
“Anh nên nhớ tôi không phải đồng chí của anh mà cũng chưa từng ở trong chi bộ anh. Tôi vẫn là cán bộ hờ ở trong chi bộ ma, chi bộ Ích kỷ và chi bộ Vị tha.”
Rồi nàng quay nhìn Ngọc cười vui sướng:
“Anh không có quyền cáu với tôi, ra lệnh bắt tôi theo.”
Thấy Ngọc cứ nhìn mãi xuống vệ đường, Thanh đến ngồi gần sát Ngọc và cũng nhìn xuống:
“Anh tìm cái gì thế?”
“Tôi tìm xem cái kính của Tứ có còn không?”
“Anh tìm làm gì. Chắc ai đi qua đã nhặt mất cái gọng vàng còn đâu mà tìm?”
Ngọc nhìn thẳng vào mắt Thanh hỏi:
“Sao chị biết kính anh Tứ gọng vàng?”
“Sao tôi lại không biết. Tứ là nhân tình của tôi. Cái kính ấy chính tôi cùng Tứ đi chọn mãi ở Côn Minh. Tôi đã phải bỏ tiền ra mua biếu Tứ để làm kỷ niệm. Bây giờ kính cũng mất, người cũng mất, à, người vẫn còn, một bộ xương trắng mà chỉ mình anh biết chỗ. Tôi bắt đền anh đấy. Hôm nào đi qua chỗ ấy thế nào anh cũng phải đưa tôi đến. Tôi sẽ chôn cất cho tử tế. Đến Ma-Lì-Pố anh phải đem theo một cái xẻng. Nếu anh hứng chí thì anh chôn tôi luôn thể, cùng một huyệt để tôi với Tứ được gần nhau trọn đời... trọn đời chết. Mấy nghìn năm sau có tay khảo cổ nào đào thấy chắc cho là chúng tôi cùng tự tử và tự tử xong thì cùng nhau lấp đất, vùi kín ngộ nhỡ có ai một trong hai người sống lại thì người ấy khỏi đi tìm một cô hay một cậu nhân tình khác.”
Nói xong Thanh cười. Thấy Ngọc cứ nhìn mình nàng tiếp theo:
“Mặt tôi có gì lạ mà anh nhìn mãi thế. Anh bảo ở đây phong cảnh đẹp lắm. Hay ta cùng ngắm cảnh. Có phải kia là nhà người Mèo anh nói mãi với tôi là anh muốn đến đấy ở không? Đúng rồi, có bụi tre mai lớn ngay cạnh. Hay là chúng mình bỏ cả công tác, đến đấy ở, cục ta cục tác với nhau như những con gà trong bài thơ Thiên Thai của Tào Đường: ‘Vãng vãng kê minh nhan hạ nguyệt’ mà tôi tạm dịch là: ‘Trong nhà mèo hai con gà dưới bóng trăng đêm đêm gọi nhau’. Nhưng không xuôi, mèo đói thì mèo xực cả gà.”
Ngẫm nghĩ một lát thì Thanh lại nói:
“À bây giờ nói đứng đắn không đùa nữa. Hôm nọ anh băn khoăn mãi về điều tại sao người ta lại giết hại lẫn nhau từ mấy nghìn năm không thay đổi, tôi nghĩ ra rồi: chẳng qua là vì cần xực nhau cả, mèo đói mèo sực gà, gà đói gà sực châu chấu, châu chấu đói châu chấu sực cỏ. Bây giờ anh đã đói chưa?’’
Thanh vừa nói vừa lấy trong túi vải ra hai chiếc bánh mì và một hộp pa-tê nhỏ. Ngọc đỡ lấy rồi bẻ bánh mì ăn với pa-tê một cách ngon lành. Đi hết đèo, người lính Mỹ cũng đỗ xe lại lấy hộp đựng các thức ăn ra.
Thanh nói:
“Đấy anh xem nếu lính Mỹ không có hộp đồ ăn họ sẽ sực tôi trước vì tôi chân tay không mà họ có súng Thompson, nếu anh không có bánh mì anh sẽ sực tôi vì anh có súng lục, chỉ có tôi đành chịu, có ít vàng giắt trong người không lẽ gặm vàng mà sống nổi. Cá lớn nuốt cá bé, từ mấy ngàn năm trước đến giờ vẫn vậy.”
Ba giờ chiều, xe qua các đèo sau cùng trước khi tới Văn Sơn. Ngọc chỉ tay xuống thung lũng:
“Chị trông, con đường kia là con đường Mã Quan đi Hoàng Su Phì. Giữa thung lũng là dòng sông Lô chẩy qua Văn Sơn về tận đất nước nhà; chính con sông ấy năm ngoái nước dồn về khiến tôi phải ở lại nhà chị Nam sáu hôm, chị phải ăn ruốc xót ruột mất mấy hôm. Chắc độ bốn giờ thì tới Văn Sơn, tôi sẽ đưa chị ăn ‘cô sèo mi siển’ trước khi đến nhà chị Nam.”
Gió trên đèo thổi mạnh. Thanh lấy chiếc khăn tay buộc phủ khỏi đầu cho tóc khỏi xoã xuống mắt và che gió lạnh. Chiếc khăn nhỏ quá, Thanh loay hoay buộc nút ở cằm không được:
“Anh buộc hộ tôi.”
Thanh ngửa mặt chờ đợi. Ngọc cũng loay hoay buộc mãi nhưng chiếc khăn vẫn nhỏ quá. “Để chị lấy khăn tôi rộng hơn”. Chàng phủ khăn lên đầu Thanh, choàng kín cả hai má và nhét tóc vào khăn; chàng cố ý để thừa một ít tóc lơ thơ trên trán và sửa lại chỗ tóc ở má cho nét mặt đỡ trơ và đẹp hơn.
Tay chàng lần đầu tiên chạm vào làn da mặt Thanh, vào đôi gò má ửng hồng như hai trái đào Côn Minh sau một ngày phơi nắng. Chàng xoay đầu Thanh về phía mình và áp lòng bàn tay vào hai má lạnh của Thanh:
“Má chị lạnh quá. Tôi khôn nên lúc nào cũng thọc hai tay vào túi. Chị không biết đèo này cao nhất vùng, gió thổi mạnh và rét lắm nhưng được cái đường dễ đi.”
Ngọc làm như chỉ để ý đến câu nói nhưng tay chàng vẫn áp mạnh vào má Thanh. Chàng cảm thất hơi nóng của hai bàn tay chàng truyền sang má Thanh và hơi lạnh của má Thanh thấm vào lòng bàn tay chàng như hoà lẫn với nhau. Ngọc buông tay ra, nói:
“Bây giờ thì chị tha hồ ấm mặt và hết ngứa má.”
Thanh nhìn xuống thung lũng rộng, có con sông chẩy giữa, quanh co lượn khúc. Nàng hé môi mỉm cười sung sướng vì nàng đã thừa biết ý định của Ngọc. Má nàng tuy có ấm hơn trong lòng bàn tay nóng của Ngọc nhưng vẫn còn những sợi tóc lơ thơ xoã ra ngoài khăn; mỗi lần xe chạy vòng, gió lại thổi hắt vào khiến nàng thấy ngưa ngứa một cách dễ chịu ở gò má và khoé môi. Nàng nói với Ngọc:
“Chưa bao giờ tôi thấy một cái thung lũng đẹp như thế này. Hay thôi chúng mình ở lại đây. Tôi đã đi học trường thuốc, tôi lại học cả đỡ đẻ, tôi sẽ tranh hết khách của chị Nam. Chúng mình sẽ giầu to. Lúc nào muốn về nước thì đi đường Hoàng Su Phì qua Pakha, tôi sẽ biến thành người Lô Lô còn anh sẽ là một chàng công tử lên Pakha nghỉ mát hay anh biến thành anh chàng gì ném thằng tình nhân phụ bạc của tôi xuống thác như ném ông ‘ba đi ghệt’ trong truyện ‘Một đêm trăng’.’’
Lúc gần tới Văn Sơn vì đường trơn nên xe Mỹ phải đỗ lại, đợi xe ở sân bay ra kéo về. Thanh cảm ơn rồi bắt tay người lính Mỹ từ biệt.
“Bye bye! “
Ngọc giơ ngón tay cái lên nói:
“Tinh hao.”