Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2011

CÂY ỚT CHIM KÉT (1)

Ngự Thuyết

Người đàn ông không còn trẻ, gầy, con mắt lanh, nhưng tóc đã bạc nhiều. Lúc đó khoảng một giờ chiều chủ nhật. Nhà vắng, ông ngồi một mình lơ đãng mở T.V. hết đài này đến đài khác. Hình như ông không tìm ra được chương trình nào vừa ý, lại xoay qua mở radio.

“... Năm nay là năm con mèo, mà con mèo phải trèo lên cao, quý vị phải mua hột xoàn, mua xoàn sẽ mau giàu, từ đây cuộc sống hết lao đao. Thưa quý vị, mua xoàn năm ly trở lên được biếu thêm một xoàn ba ly ...”
Ông lẩm bẩm quảng cáo nghe cũng vui nhưng cây cau chứ. Mà cây cau cũng cao, thế thì cho OK đi. Ông nhớ mấy câu ca dao ông biết từ hồi bé tí, cái tuổi còn tin tưởng lơ mơ rằng ở một nơi nào đó thần tiên, người ta, cầm thú sống lẫn lộn với nhau, nói được tiếng của nhau, hiểu được nhau. Và hình như cũng thường tử tế với nhau:

Con mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ làng xa
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo.


Hồi nhỏ, thích con mèo này quá. Nó thật là chịu chơi, chịu khó trèo lên cây cau mà cây cau thì cao, lại suôn đuồng đuột không cành không mắt đâu phải dễ trèo. Thế mà lên tới nơi không phải để bắt chuột lại còn thăm viếng hỏi han. Chuột càng “tếu” hơn, đi chợ mua đồ về cúng cha mèo. Tử tế với nhau ghê. Chỉ tiếc nhà chuột quá nghèo, đám giỗ quá sơ sài, chỉ có mắm với muối. Nhưng tại sao chuột được tôn là “chú” trong khi mèo giữ phận “con”. Có lẽ vì chú chuột này là bạn bè và đàn em của cha con mèo chăng.

Lớn lên, à, cái này nói vậy mà không phải vậy. Mèo tìm chuột để xơi tái, chuột biết nên trốn lẹ, nhưng trước khi chạy trốn cũng phải chửi cha con mèo một phát cho đỡ tức. Đi mua mắm mua muối ăn cho “thối mồm thối miệng” chửi cho cay độc chứ có phải để giỗ ai đâu. Cha mày đã chết do tao giết đấy nên tao biết ngày giỗ, còn mày là đồ bất hiếu chả biết cả ngày giỗ cha, lại còn mò lên đây giở trò “hỏi thăm sức khỏe” của tao hả!

Ông lẩm bẩm hồi nhỏ thấy cái gì cũng dễ thương, và vặn qua đài khác. Cũng quảng cáo.

Quý vị có thông cảm không nào? Ngựa còn biết đau lòng đối với đồng loại huống là người. Sách có câu một con ngựa đau cả tàu nhịn đói. Cho nên dù thiên tai xẩy ra tại nước Nhật xa xôi, mình ở đây yên hàn vô sự cũng phải thông cảm cho nỗi thống khổ cực kỳ to lớn này, cực kỳ vĩ đại này, của họ. Nhà cửa, xe cộ, tử thi, trôi lềnh bềnh như đồ chơi trước cơn sóng thần, lại thêm các lò nguyên tử rò rỉ phóng xạ, hàng ngàn, hàng vạn người hoặc thiệt mạng, hoặc nhiễm độc, hoặc tàn tật suốt đời. Khổ đến thế là cùng. Người chết dù thế nào đi nữa cũng đã chết rồi, nhưng người còn sống thì sao? Quý đồng hương thử nghĩ xem, họ sẽ bớt bứt rứt nếu họ đối xử đàng hoàng hơn, tử tế hơn, ân cần hơn, âu yếm hơn, vân vân và vân vân khi người thân thương của họ còn sống. Quý vị có đồng ý với tôi không nào? Và quý vị phải nhớ kỹ rằng thiên tai có thể giáng xuống bất cứ lúc nào, nơi nào. Biết đâu nay mai Ca - li cũng sẽ lãnh đủ. Cho nên quý vị hãy mau mau mua hột xoàn cho người bạn đời tình nghĩa đầu gối tay ấp, cho người yêu định cưới làm vợ, hay cho người yêu lý tưởng, vân vân và vân vân. Hột xoàn của chúng tôi xin bảo đảm là hảo hạng, mua xoàn năm ly trở lên được biếu xoàn ba ly.

Cái quảng cáo này hơi quá đáng, ông lẩm bẩm. Ông thích nghe quảng cáo dù ông rất hiếm ít khi theo vợ đi mua sắm. Đàn bà khác, có tiền hay không tiền vẫn đi shopping đều đều, không biết chán. Đúng thế, vợ ông khi hết tiền cũng cửa hàng này mall nọ trơ mắt ngó. Bỗng có tiếng xe dừng trước cửa, một tên cà chớn nào ghé chơi chắc, ông thầm hỏi. Lại cờ tướng, lại tán gẫu, lại nói tục. Có khi đủ tay lại xì ruồi tìm cảm giác.

Thường thì kiếm cái gì trong tủ lạnh mang ra nhậu, rồi nói lan man đủ thứ chuyện, thế là cũng xong một chiều chủ nhật để ngày hôm sau, như mọi ngày, lại đi cày. Ông tắt radio. Ông cho rằng chữ đi cày nghe không ổn, nhưng ông chưa tìm được chữ khác. Và trong những chuyện lan man ấy thế nào cũng có nhắc nhở đến các bạn cũ, thằng này ở Mỹ, tiểu bang miền đông, tiểu bang miền tây, thằng kia ở Úc, ở Gia Nã Đại, ở Pháp v.v…, lại có tên đi Na-Uy, Thụy-Điển, Đan-Mạch, lại cũng có tên lang thang lạc vào xứ “Do Thái lang thang”. Và lại cũng có tên dông tuốt qua Yamoussoukro, thủ đô của nước Bờ Biển Ngà, mé tây của Châu Phi. Kể cũng lạ, dân mình bị rải ra quá nhiều nơi trên thế giới sau cái biến cố ấy.

Nhưng tại sao lại thằng? Đã già rồi mà vẫn cứ ưa nói thằng này thằng nọ khi nhắc đến nhau, quên hết lễ nghĩa hả? Trước mặt nhau xưng hô có nhẹ nhàng hơn đôi chút, anh tôi, toa moa, cậu tớ, mày tao, hoặc gọi tên nhau, họăc mình mình, tuỳ. Xưa đâu có thế. Bác tôi tôi bác chứ. Thử lấy trường hợp Nguyễn Khuyến:“Bác Dương thôi đã thôi rồi...Tôi già bác cũng già rồi”, hoặc “Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu/Lụt lội năm nay bác ở đâu”, hoặc “Đã mấy lâu nay bác đến nhà/ Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.” Cái ông nhà Nho này coi bộ thương bạn bè dữ, nhắn người này, hỏi người khác. Các bà dường như cũng không màu mè hơn mấy. Ông có nghe lóm, họăc vô tình nghe, vợ ông nói chuyện với bạn gái, những bạn thân, mày mày tao tao “bố sua”, dù người nào cũng con cháu đầy đàn.

Thỉnh thoảng lại cũng có thằng cha chán đời ghé chơi trở chứng chả muốn nói chuyện, hỏi cũng chẳng thèm trả lời, ngồi thừ một chốc, cái mặt chị bị như cái bánh tráng nhúng nước, rồi bỗng dưng đứng dậy “xách đít” ra về, hẹn gặp khi khác.

Nhưng ông đã đoán nhầm. Chiều hôm đó khách đến chơi là ông Huy, người bạn vong niên khá thân ở cách ông khá xa, lái xe gần ba tiếng. Thật ra ông là bạn nối khố của Hoàng, em ông Huy. Từ ngày Hoàng mất, ông Huy xem ông như em ruột. Ông Huy lớn tuổi hơn ông nhiều, đã đến Mỹ trước ông hơn mười năm vào thời kỳ những làn sóng người tỵ nạn đổ ra biển như bị sóng thần bên Nhật cuốn, nên bỏ mạng trên biển cũng vô số kể. A cái anh chàng Huy đạo mạo này, vui quá ta.

Vừa bước vào nhà, ông Huy đã than:
“Tiến ơi, bậy quá.”

Trong khi ông Tiến, chủ nhà, dọn dẹp đồ đạc nằm ngổn ngang trên bàn, ông Huy mở tủ lạnh lấy nước ra uống, rồi đến ngồi phịch xuống ghế nói tiếp:
“Bậy quá. Tôi mang cây ớt đến đây, cây ớt do chính tôi gầy giống và nuôi nấng nó được nhiều năm rồi. Tôi để chậu ớt dưới chân ghế bên cạnh, cẩn thận lấy đồ chêm thật chắc cho nó khỏi ngã. Chạy gần một tiếng mới lên đến đỉnh ngọn đèo, nhìn trệch xuống xem thử thì thấy cây ớt đã héo queo, lá rũ xuống hết, các cái ngọn cũng quẹo lại. Xe nóng quá, xe cũ mà, tôi đâu dám mở máy lạnh, nó chịu không nổi, nó chết. Biết làm sao đây, bậy bạ hết sức. Chán đời quá cậu ơi.”

Ông Tiến kinh ngạc hỏi:
“Sao vậy anh. Nó chết thì kiếm cây khác. Việc gì phải chán đời.”

Không để ý câu nói của bạn, ông Huy tiếp tục:
“Cậu biết không? Trời nắng lớn nhưng tôi không để máy lạnh. Xe đã cũ, trèo đèo đâu dám cho máy lạnh chạy. Trong xe nóng bức, tôi mồ hôi tuôn ra như tắm, và cây ớt thì nó như thế đó.”

“Vâng, anh vừa nói với tôi như thế, tôi nghe rõ năm trên năm. Nó quẹo thì cho nó đi tiêu dên cù lúi luôn ... thiếu giống gì thứ đó.”

Ông Huy chau mày:
“Thiếu giống gì hả? Đó là cây ớt độc nhất còn lại. Biết thế tôi ương thêm cây, họăc để dành hột giống.”
“Anh ưa chuyện rắc rối quá. Kiếm cây khác trồng, khỏe ru.”

“Đâu có đơn giản như thế. Để tôi kể cho cậu nghe lai lịch cây ớt này, dài dòng lắm.”

“Ô thế thì tốt quá,” ông Tiến nói. “Tôi ở nhà một mình đang buồn, đang mong một tên cà chớn nào tới chơi thì vừa vặn anh đến. Ở lại với tôi vài ba ngày nghe. Lâu quá mới gặp lại nhau anh nỡ lòng nào đi liền tù tì như những lần trước.”

“Vâng, tôi cũng định như thế. Cậu biết không, tôi lái xe về đây chở cây ớt cho cậu giữ giùm, và để xe lại đây luôn. Xe cũ rồi, cậu bán giùm tôi đi, bao nhiêu cũng được. Tôi sẽ tậu xe mới. Chơi với cậu hai ngày rồi đáp máy bay đi lên miền bắc, đi tiểu bang Minnesota. Hãng của tôi dời lên đó. Giữ nó giùm cho tôi nhé. Mỗi năm thế nào tôi cũng trở lại Cali thăm cậu một vài lần, thăm cây ớt luôn.”

“Giữ cây ớt? Thăm cây ớt? Anh sắp khùng chưa? Tôi chưa hề nghe ai nói kiểu đó. Phải move lên Minnesota hả? Mùa đông trên đấy dài thòong và lạnh kinh khủng. Tôi ở đó hơn một năm, cuối cùng phải lạy nó cả tơi cả nón rồi dọn về đây. May quá. Thế mà anh bỏ đây lên đấy, tội nghiệp. À này, tôi giữ giùm anh cây ớt? Cũng được thôi. Nhưng tôi hỏi thật tại sao anh cưng cây ớt dữ vậy?”

Ông Huy cười bí mật:
“Một cây ớt đặc biệt. Chuyện khá dài. Đây tôi kể anh nghe.”

*

“Tôi đến Mỹ trước cậu gần mười năm, nhớ không, và tôi đã phải vượt biển, phải trải qua bao nhiêu là gian nguy chớ đâu có được leo lên máy bay đi cả nhà như cậu. Nhưng cậu chỉ biết có thế. Cậu có biết trước khi thoát được qua đây, tôi làm gì bên nhà?”

Ông Tiến nhanh nhẩu trả lời:
“Thì sau ngày rã đám anh đi tù là cùng chứ còn làm được trò trống gì?”

“Không, không phải thế. Tôi không đi tù như cậu. Lúc đó đơn vị của tôi đóng đồn gần cầu Là Ngà trên đường từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Vào giờ chót, trong lúc mọi người tụ tập bàn tính, hai thằng bạn lẻn vào lô-cốt cho nổ lựu đạn banh xác. Ai nấy chết điếng. Chúng tôi tính toán được gì đâu. Chôn cất hai thằng ấy xong là tan hàng. Kẻ thì hướng về phía Định Quán, Bảo Lộc lên Cao Nguyên, kẻ thì theo ngõ Dầu Giây xuôi về Sài Gòn hoặc ra Trung. Tôi đi Đà Lạt. Trước kia tôi có học Võ Bị Đà Lạt, sau cũng có nhiều dịp lên đó chơi, thăm người em gái nhỏ.”

“Uả, anh có em gái mà tôi không biết. Tôi tưởng anh chỉ có Hoàng là em trai, nó đã tử trận hồi 1972.”

“Người em gái nhỏ của thành phố sương mù đấy mà. Bạn bè làm việc trên đó cũng có mấy người. Cho nên, trong lúc thảng thốt chưa biết chạy về đâu, tôi đón xe đi Đà Lạt.”

Ông Tiến ngắt lời

“Trật rồi. Có xe đâu mà đón.”

“Tiến ơi, tôi không ưa bịa chuyện như cậu đâu. Trong mấy tuần lễ đầu tiên sinh hoạt thường ngày vẫn chưa có gì thay đổi. Vẫn xe đò Minh Trung chạy Đà Lạt-Sài Gòn. Cho nên nhiều người tưởng bở. Chưa đầy một tháng sau có lệnh tập trung “ngụy quân ngụy quyền”. Lại cái ngón gì đây? Một ngày trước khi hết hạn trình diện, tôi phân vân quá. Cuối cùng, trốn. Nay ở nhà người này mai nhà khác, những người quen cũ. Cũng phiền cho họ lắm nhưng tôi không biết làm gì khác hơn. Lúc kẹt quá thì xó chợ, chuồng bò, gốc cây, ngọn đồi. Đêm Đà Lạt đầu mùa hè vẫn lạnh thấu xương. Lưới công an giăng đầy cho nên càng ngày tôi càng phải tìm cách trốn tránh ra xa thành phố. Xa mãi. Cho đến khi tôi gặp và được cho gia nhập vào nhóm người sống trong rừng.”

Ông Tiến nói chen vào:
“Nghĩa là anh tìm được mật khu?”

Ông Huy cười:
“Mật khu? Sau này tôi mới nghe nói cũng có một số mật khu. Con người ta mỗi người có một cái số. Chẳng ai giống ai dù cùng đơn vị, dù cùng bại trận, dù cùng ở tù, dù cùng chạy trốn. Sau ngày rã đám tôi chạy như điên. Nhiều nơi lắm. Cuối cùng mò được qua đây. Thôi để vắn tắt, tôi nói chuyện cây ớt.”

“Anh Huy ơi, anh cứ lai rai nói hết cho tôi nghe, càng nhiều chuyện càng tốt. Nghe quảng cáo lãng nhách mà tôi cũng thích nghe huống là... Mấy khi được rảnh rang như thế này. Sao, nhóm người rừng thế nào?”

“OK. Trước hết tôi lọt vào với đám người đi rừng. Họ là những người nghèo khổ, thất học, cùng đường, không có cách gì kiếm được miếng ăn trong thành phố, bất kỳ thành phố nào. Trong những ngày loạn lạc ấy, họ cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện vượt biên, vượt biển, chỉ biết bám vào rừng rú mà sống. Lâu dần họ trông giống như người Thượng, da đen dày, mắt vàng, răng xấu, tóc cằn không mọc nổi. Ừ thì cũng có mọc, mọc chậm. Và hình như họ quên dần tiếng nói. Nhưng được cái họ hiền khô. Gặp tôi họ cho đi theo ngay.”
“Sao anh dở thế. Sỹ quan mà, phải lãnh đạo chứ, phải đi trước, sao lại đi theo đuôi.”

“Thôi im đi, để tôi nói tiếp. Thoạt đầu chúng tôi sống quanh quẩn không xa vùng Suối Vàng cho lắm, chỉ khoảng vài ba mươi cây số sâu vào trong rừng. Cậu biết Suối Vàng chứ, cách Đà Lạt khoảng hai chục cây, trước kia ở đó có đập thuỷ điện, có nhà máy. Từ Đà Lạt lên Suối Vàng chỉ có một con đường độc đạo nhỏ, trải đá, nhiều dốc lên dốc xuống, giặc giả lâu ngày đường sá bỏ hoang, cỏ mọc tràn, nhiều chỗ bị sụp, nhiều đoạn không còn vết tích. Rồi chúng tôi đi sâu thêm, sâu mãi, đến vùng núi Thiên Nga cách Suối Vàng hơn bốn chục cây nữa. Rồi lại đi sâu thêm nữa, đi đến những nơi chưa có tên, chưa có dấu chân người. Chân cứng đá mềm, đi đâu cũng tới.”

1   2   3