Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

Giòng sông Thanh Thuỷ (Phần III, kỳ 5)

Nhất Linh

Phần thứ ba
Vọng Quốc
  Chương ba mươi

Về tới Mông Tự, Ngọc lại ngay nhà Hoạt thăm Phương.

Không may Khuê vợ Hoạt lại có nhà. Ngọc thấy Phương nhìn mình hai con mắt đau khổ và oán hận. Ngồi một lúc Phương bỏ xuống nhà dưới. Ngọc đoán là Phương xuống để khóc. Hôm sau, Ngọc cố rình lúc cả hai vợ chồng Hoạt đi vắng rồi gọi cổng. Người đầy tớ ra mở. Phương mời Ngọc vào phòng khách, kiếm cớ sai người đầy tớ đi; Phương ra đóng cửa lại rồi ngồi xuống ghế bật lên khóc nức nở. Ngọc đến đứng bên cạnh ghế, yên lặng một lúc rồi cúi xuống lấy khăn tay chấm vào hai mắt Phương. Chàng kéo ghế ngồi kề bên cạnh.


“Xin lỗi Phương. Anh vì công việc nên phải lên Côn Minh ít tháng. Bây giờ anh lại về đây. Xin Phương đừng giận.”

Phương quay lại nhìn Ngọc; hai mắt đã thoáng vui:

“Cũng tại số kiếp em như vậy. Em đâu dám trách anh, em chỉ biết em đã đau khổ lắm trong mấy tháng anh đi biệt tăm tích.”

Nếu Phương tỏ ý giận hay ghen tương thì Ngọc không khó chịu; nhưng Phương chỉ yên lặng, hai con mắt nàng vẫn còn hiền dịu ngây thơ như mắt một con thỏ non. Ngọc cầm lấy bàn tay Phương:

“Khi nào cách mệnh thành công...’’

Chàng ngừng lại vì chàng không muốn nói dối Phương; chàng xoay câu chuyện:

“Cũng mới cách đây mấy tháng, có việc qua Mông Tự anh đến ngay thăm em nhưng không may cho anh chỉ được có một ngày mà lại đến giữa lúc anh chị Hoạt có nhà. Anh biết làm thế nào, mà anh đi vì những việc vừa quan trọng, vừa gấp, không thể nấn ná ở lại thêm đến nửa giờ chứ không nói là đến nửa ngày.”

Phương để hai bàn tay mình trong tay Ngọc đắm đuối nhìn chàng. Nàng chỉ nghĩ đến hưởng cái sung sướng trong hiện tại; nàng không thể oán trách Ngọc mà cũng không có chuyện gì nói với Ngọc.

Ngọc bỏ tay Phương ra:

“Bây giờ lại được cái may trở lại Mông Tự, anh sẽ cố đến thăm em luôn.’’

Phương ra mở cửa vì óc vụng về của nàng chỉ nghĩ được việc sai người nhà đến một người bạn ở không xa mấy để mượn một chiếc áo cánh về làm mẫu. Nàng vừa mở cửa xong thì đã trông thấy người nhà đi tới đầu phố. Người nhà báo Phương biết là tới nơi thì bà Hoan vừa đi khỏi. Phương nói:

“Thôi để chiều lại cũng được.”

Rồi nàng nói to giọng với Ngọc:

“Anh Hoạt tôi bây giờ hết chiến tranh nên...”

Khi người nhà xuống bếp Phương tiễn Ngọc ra cổng. Trời nắng to. Phương đứng dựa vào một gốc cây ở khu vườn trước. Ngọc cũng đứng lại rồi hai người nhìn nhau đắm đuối một lúc lâu. Trong thâm tâm, Ngọc thấy mối tình yêu Phương một độ lắng chìm nay lại bắt đầu nẩy nở; chàng yêu và thương cho Phương. Chàng bối rối, không biết lòng mình ra sao, tự nhủ: hay là mình yêu cả Phương lẫn Thanh. Chàng nói khẽ:

“Anh yêu em.’’

Tiếng nói nhỏ quá, Ngọc tưởng như không phải chính chàng đã thốt ra mấy lời đó.

Hai con mắt trong của Phương lộ vẻ ngơ ngác như mắt một con chim bồ câu trước một tiếng động bất ngờ. Khi hiểu, Phương rơm rớm nước mắt rồi quay gót trở về nhà. Nói ra mấy tiếng “anh yêu em’’ Ngọc đã rất thành thực với chính mình, nhưng chàng không thể không tự trách đã để những lời ấy thốt ra cho Phương nghe thấy. Ngọc nghĩ chỉ có cái chết – chết vì bệnh hay vì phận sự – mới giúp chàng thoát khỏi tình trạng giằng co và éo le của lòng mình đối với Phương cũng như đối với Thanh.

Trong sáu bẩy hôm, Ngọc tránh không đến thăm Phương, không đến ngồi trên gác nói chuyện với Thanh nữa. Chàng dự vào công việc Khu đảng bộ một cách hăng hái hoặc có khi chàng nằm lỳ ở nhà suốt ngày không nói với Việt hay Xuân một câu... Hôm nào gặp buổi khai hội có Thanh đến dự, Ngọc cố ý ngồi thật xa về phía sau lưng Thanh. Tan họp hoặc chàng đi trước hoặc ở lùi lại sau đợi Thanh đi khỏi. Có lần Thanh ra trước đứng ở ngoài đợi, Ngọc đi thẳng, mặt quay nhìn phía khác làm như không biết có Thanh chờ, nhưng chàng cũng thoáng thấy vẻ nhìn oán hờn trong mắt Thanh. Cũng có khi Thanh cau mũi và bĩu môi và tuy chính Thanh đợi chàng ra, nàng lại quay mặt đi trước làm như không trông thấy Ngọc.

Một buổi sáng Lăng rủ Ngọc đến hiệu Thanh Hương. Ngọc định từ chối nhưng lại thôi. Đương uống, nhân một lúc Lăng ra vườn sau, Thanh nói nhỏ với Ngọc:

“Anh nên đến thăm Phương luôn. Sáng mai mời anh lại sớm, tôi có chuyện cần nói với anh.’’

Nét mặt Thanh hồn nhiên không tỏ ý giận hay vui mừng gì cả.

Thấy Lăng sắp ra, Thanh nói vội:

“Sáng sớm mai bẩy giờ, tôi đợi. Có việc cần.’’

Sáng hôm sau Ngọc đến sớm vào lúc không có khách. Thanh đứng ở đầu thang gác nói vọng xuống:

“Mời anh lên.’’

Hai người lại ngồi vào chỗ cũ, cạnh cửa sổ. Yên lặng một lúc lâu, Thanh cất tiếng nói trước:

“Tôi đã suy nghĩ mấy hôm nay. Phương thực xứng đáng là vợ anh. Nếu anh còn bận công việc thì anh nên ngỏ ý với Phương rồi nhờ người nói với anh chị Hoạt làm lễ ăn hỏi ngay.’’

Ngọc liếc nhìn Thanh thấy vẻ mặt nàng lạnh lùng khác hẳn mọi khi. Thanh tiếp theo luôn:

“Tôi với anh chỉ là hai người bạn hay hai đồng chí.’’

Nói xong Thanh mỉm cười vẩn vơ hỏi Ngọc:

“Ý anh thế nào? Nếu cần tôi sẽ đứng ra làm mối. Tôi có quen chị Hoạt, tôi sẽ liệu nói.’’

Ngọc không đáp. Chàng nhìn ra phía cây, dáng tư lự. Một lát sau chàng nhìn vào mắt Thanh, nói:

“Tôi không bao giờ lấy... Tôi với chị suốt đời chỉ là hai người bạn, còn việc lấy Phương, tôi xin thú thực là tôi có yêu Phương nhưng cưới Phương làm vợ thì mặc dầu Phương đau khổ vì tôi, tôi xin thề với chị là không bao giờ lấy Phương cũng không bao giờ lấy ai cả. Tình hình Hà Giang hiện giờ đương nguy ngập; chưa có lệnh, tôi cũng cứ về để giúp sức các anh em khác chống cự lại Việt Minh. Dòng sông Thanh Thuỷ tuy tôi đã qua nhiều lần nhưng mỗi lần đứng bên bờ sông tôi vẫn thấy dòng nước ấy như ngăn cách tôi với một thứ gì mà tôi không hiểu. Đó chỉ là một linh tính, tôi không dị đoan, chị chắc đã rõ nhưng... Tôi biết nếu lần này tôi qua dòng sông Thanh Thuỷ thì không có ngày trở lại nữa, cũng như Kinh Kha không bao giờ qua sông Dịch Thuỷ lần thứ hai.’’

Ngọc chớp mắt luôn mấy cái rồi cầm lấy cốc cà-phê bảo Thanh:
“Tôi thương hại anh Tứ, tôi biết là tôi bị Tứ ám ảnh suốt đời. Tôi không bao giờ quên được lúc tôi... xin lỗi chị... lúc tôi lột hẳn quần đùi Tứ và trông thấy... Chị còn nhớ rõ hôm Nhật đầu hàng mấy người Tàu đem rượu đến bàn tôi với chị ngồi. Không lúc nào bằng lúc đó tôi cảm thấy người ta ai cũng tốt, cũng yêu hoà bình nhưng vì cớ gì họ giết lẫn nhau, vì cớ gì tôi giết người, hai bàn tay nhiều lần vây máu, không bao giờ sạch được, không bao giờ...’’

Chàng cúi mặt, hai bàn tay ôm đầu tiếp theo:

“Nhưng tôi không hối hận. Theo như lời chị nói, đấy là kiếp tôi như thế, đấy là định mệnh. Mấy nghìn năm nhân loại vẫn không thay đổi, chắc phải có một nguyên cớ gì...”

Tiếng Thanh lọt vào tai chàng như tiếng từ thời xưa vẳng đến:

“Tôi hiểu anh, vì tôi cũng cảm thấy như thế nhưng còn hiểu rõ được duyên cớ, thì tôi tin không ai hiểu nổi. Tôi, tôi sẽ tìm một ngôi chùa nào...”

Ngọc ngửng lên. Nắng tháng Tám khiến chàng chói mắt. Cũng như trên Côn Minh, qua cửa sổ vẫn có một khu vườn rau; khu vườn tuy rộng hơn nhưng vẫn có những cành cây lá bóng loáng ánh sáng, những tấm áo phơi rung động trước gió và cả cái thành giếng gạch ướt nước loé lên những ngôi sao lấp lánh. Cuộc đời vẫn tươi đẹp đơn sơ...

Bỗng có tiếng Lăng từ dưới nhà vẳng lên:

“Chị Kim đâu? Mời chị đến họp ngay. Có tin Hà Giang thất thủ. Tất cả hơn bốn mươi cán bộ đều bị Việt Minh thủ tiêu chỉ còn sống sót được một người chạy về Ma-Lì-Pố. Mới nhận được điện tối hôm qua của chị Nam ở Văn Sơn.”

Ngọc và Thanh đều đứng dậy cùng một lúc. Thanh nói:

“Anh cứ đi báo các anh em. Tôi sửa soạn rồi lại ngay trụ sở.”

Ngọc mắt vẫn nhìn qua cửa sổ nhưng không để ý đến khu vườn. Cuộc đời lại hết đơn sơ, toàn những sự chết chóc, giết hại lẫn nhau. Cái guồng máy bắt đầu quay. Người chàng choáng váng: Bốn mươi anh em bị bịt mắt đưa đi trong đêm tối, đến một cái huyệt lớn hay biết đâu chỉ là một cái rãnh hay một vực sâu giữa hai quả núi. Họ chắc bị tháo giầy đi chân không, áo quần bị lột hết để những người khác mặc thay, hoạ chăng chỉ còn lại mỗi người một chiếc quần đùi...

Thanh hỏi Ngọc:

“Này anh, tôi sẽ tình nguyện về Hà Giang. Anh thuộc đường, anh sẽ đưa tôi về như anh đã đưa Nghệ và Tứ. Còn bao nhiêu anh em rải rác ở biên giới Việt, chúng mình sẽ tìm cách đưa họ sang đất Tàu.”

Ngọc không nói nhưng trong bụng nghĩ thầm đã sắp đến ngày thoát khỏi mối tình éo le giữa chàng với Phương và Thanh.

“Chị cho tôi một cốc cà-phê phin nữa. Uống xong tôi đến họp trước, chị đóng cửa hàng hay nhờ bà Su trông coi, tuỳ ý. Chị sẽ tới sau tôi một lát.”

Lúc Ngọc đến, anh em trong Khu Bộ đã gần đủ mặt. Một lúc sau Thanh cũng tới. Anh Khu Bộ trưởng đọc điện văn của Nam ở Văn Sơn gửi về. Thanh đứng lên giơ tay:

“Tôi xin tình nguyện về tận Hà Giang dò xét tình hình. Tôi về được vì chưa ai biết tôi gia nhập hàng ngũ, tôi chỉ là một người làm ăn buôn bán lương thiện. Nhưng đường về Hà Giang tôi chưa đi bao giờ xin anh em cử một người thông thạo đường lối để đưa tôi về Thanh Thuỷ.”

Không cần bàn cãi, mọi người đều nói ngay:

“Đã có anh Ngọc.”

Sau khi nghe qua tình hình, Thanh và Ngọc xin về trước, nói là để bàn định cách thức đi. Thanh hẹn ba hôm nữa sẽ khởi hành. Anh giao thông viên nói không cần đi bộ từ Mông Tự đến Văn Sơn vì vấn đề đi nhờ xe Mỹ về Văn Sơn rất dễ. Hiện nay hết chiến tranh có những đoàn xe đi không để đem các vật liệu ở trường bay Văn Sơn về.

Ra đến ngoài Thanh nói với Ngọc:

“Tôi với anh chẳng cần phải bàn luận gì. Tôi về thu xếp hàng cà-phê còn anh... anh nên lại báo cho Phương biết và từ biệt Phương.”

Ngọc đến ngay nhà Phương vì biết chắc Hoạt và Khuê đương bận họp. Chàng không vào nhà, đứng ở khu vườn trước cửa, Phương chạy ra vui mừng nói:

“Sao lâu không thấy anh đến.’’

Ngọc yên lặng một lát rồi nói:

“Anh đến đây để từ biệt em. Hà Giang vừa thất thủ. Bốn mươi anh em đã bị Việt Minh thủ tiêu. Anh phải đi ngay về biên giới để đón các anh em nào sống sót đưa sang đất Tàu.”

Phương nhìn chàng ngây thơ. Tâm hồn nàng bình tĩnh như khu vườn nắng. Những việc giết chóc lẫn nhau như những việc xa lắc xa lơ không liên can gì đến nàng cả trừ có việc Ngọc sắp phải đi. Nàng nói với Ngọc:

“Em không hiểu việc các anh định làm. Có một điều cần là anh cứ ở bên phía biên giới Tàu, đừng về nước. Anh đón các anh em rồi đưa về đây. Còn thổ phỉ thì không ngại lắm vì em nghe người ta nói có bộ đội Tàu kéo về ngả Hà Giang. Anh có đi thì đi với họ.”

Nhìn Phương Ngọc thấy lòng mình thản nhiên như không. Chàng nói với Phương một vài câu để nàng yên tâm rồi từ biệt ra đi. Phương giơ tay vẫy, chàng cũng vẫy vẫy mấy cái rồi rảo bước về phía hàng Thanh Hương.

Tự nhiên chàng hết băn khoăn vừa đi vừa thổi sáo miệng. Phương cũng như bà Vĩnh, hai người đều sống một cuộc đời không bận rộn, yên lành; chàng ghé qua thế giới của họ thấy vui vui, êm ả trong lòng nhưng chỉ thế thôi. Còn Thanh, tâm hồn Thanh là cả một thế giới mông lung muôn mầu sắc, rất khó hiểu nhưng có một sức quyến rũ lạ lùng.

Ngọc cho cuộc đi với Thanh về Hà Giang như một cuộc đi tìm kiếm thiên thai. Thân chàng dù có bị guồng máy nghiến nát nhưng linh hồn chàng theo lời Thanh vẫn thường nói, sẽ tan đi như hạt muối trong nước hay biến thành một niềm vui hoà loãng trong cái mênh mông của hư vô. Phạm Lãi, Tây Thi chết đã mấy nghìn năm nhưng tâm hồn hai người vẫn còn tồn tại trong tâm hồn nhân loại. Tan đi là còn mãi mãi, sống đấy nhưng cái tan rữa đã ngầm ngấm bắt đầu. Hai mươi năm sau thân hình đẹp đẽ của bà Phương sẽ biến thành bà Vĩnh và sau cùng còn lại một bộ xương trắng nằm trong lòng đất lạnh. Thể xác Tứ bây giờ chỉ là một bộ xương khô dãi mưa nắng song hình ảnh Tứ vẫn còn lại được vài chục năm nữa trong tâm trí người vợ thân yêu.

Nghĩ vậy Ngọc lắc đầu để xua đuổi sự ám ảnh về Tứ. Tự nhiên chàng thấy trong người bồng bột muốn làm một việc gì rất nguy hiểm bên cạnh Thanh và tình yêu Thanh chàng lại thấy dần dần dâng lên tràn ngập trong lòng.

Hàng cà phê Thanh Hương lúc đó rất đông khách nhưng toàn khách người Tàu, bà Su và Thanh đương bận tới tấp. Ngọc lên thẳng trên gác ngồi đợi. Một lát sau Thanh lên một tay bưng cốc cà-phê:

“Đây là cà-phê tự tay tôi pha lấy không phải cà-phê bà Su pha mà sợ. Thế nào anh đã đến thăm cô Phương của anh chưa?”

“Có, tôi vừa đến thăm nói mấy câu để cô ấy yên tâm.’’

Thanh nhìn Ngọc thấy hai mắt chàng sáng hẳn lên và nét mặt lộ một vẻ sung sướng khác thường, nàng không thể lầm được. Thanh nghĩ thầm:

“Chắc hai anh chị đã ngỏ lời yêu nhau rồi. Vợ chồng Hoạt chắc còn bận họp, hai cô cậu tha hồ mà tự do nói chuyện.’’

Nàng thấy nhói ở tim, nhìn kỹ má Ngọc xem có vết son đỏ nào không, nhưng tuyệt nhiên không có dấu vết gì. Mặt Ngọc hơi tái lại nhưng ngầm có một nỗi vui háo hức hình như Ngọc vừa quyết định xong một việc rất quan trọng trong đời. Ngọc quên cả uống cà-phê, bàn tay chàng đặt trên bàn nắm chặt lại. Thanh ngồi yên đợi Ngọc bắt đầu câu chuyện. Một lúc sau Ngọc gạt cốc cà-phê sang bên cạnh để đưa người ra đằng trước như để nói thầm với nàng điều gì. Thanh nghĩ “dưới nhà toàn người Tàu việc gì cần nói thầm” nhưng nàng cũng nghiêng người sát lại gần Ngọc và lắng đợi. Ngọc nói khẽ nhưng giọng quả quyết:

“Tôi đã quả quyết rồi. Tôi không ở bên này biên giới, cũng không lẩn lút về phía Hoàng Su Phì. Tôi sẽ ở về hẳn tỉnh Hà Giang với chị.”

Thanh kêu lên:

“Anh muốn tự tử à? Tôi về được vì không ai biết tôi là ai, còn anh, Việt Minh biết rõ anh lắm rồi. Anh muốn tôi chết với anh sao?”

“Chị Thanh, bốn mươi người, thêm một người nữa cũng vẫn thế. Chị sợ chết thì chị ở lại phía bên này sông Thanh Thuỷ, tôi sẽ đưa dần người sang, nếu còn.”

“Tôi sợ? Anh tưởng tôi sợ à? Nếu anh đã nói vậy thì tôi sẽ sang bên kia sông Thanh Thuỷ, nghe anh nói thì có một bến đò buôn hàng lậu và một cái cầu sắt bắc ngang sông Thanh Thuỷ: cầu sắt hiện giờ chắc quân Việt Minh gác nghiêm nhặt lắm. Rồi anh xem, tôi sẽ cùng anh đi qua cầu nếu có sao thì...

Tuy Thanh bỏ lửng câu nói nhưng Ngọc hiểu ngay nàng định nói: “Nếu có sao thì cùng chết”.

“Cùng chết”. hai chữ ấy vang lên như những tiếng reo vui ghê rợn. Hai người yên lặng nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc và cùng nghĩ thầm: “Yêu nhau đến bực ấy sao”. Ngọc nói thản nhiên:

“Cái đó tuỳ chị, tôi đã quyết tâm và không vì lẽ gì mà lùi bước.”

“Cái đó tuỳ ý anh, còn tôi, tôi sẽ đi thẳng qua mặt lính gác, ngang nhiên như người đi chơi mát. Rồi anh xem. Tôi sẽ qua dòng sông Thanh Thuỷ bằng cầu sắt. Dòng sông Thanh Thuỷ là của riêng tôi vì tên tôi là Thanh.’’

“Này chị Thanh, tôi không dị đoan nhưng xin chị chớ bén mảng đến dòng sông Thanh Thuỷ. Thanh là tên chị, Thuỷ là nước, chị chắc sẽ bị hại ở đấy và người chị sẽ tan thành nước.’’

“Vâng thì cho nó tan đi. Hồn tôi sẽ theo dòng Thanh Thuỷ trôi vào Thiên Thai... mà chỉ có một mình.’’

Nàng quay đi để giấu nụ cười:

“Tôi đã đọc kỹ năm bài thơ Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai của Tào Đường. Trong đó chỉ có hoa đào, hoa mai, chó và chim hạc với gà... tuyệt nhiên không có châu chấu!’’

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét