Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2011

Người Rơm

Tâm Thanh

Khi mùa đông buốt giá tột độ ở đây, tôi biết nơi xa xôi bên kia là mùa xuân. Người nhắc nhở tôi điều này không phải cha mẹ tôi (ông bà chết trên đường vượt biên từ Hải Phòng sang Hồng-công, lúc tôi năm tuổi), mà một cô giáo người Thụy-điển, cô Anita. Nhưng từ ngày tôi bỏ học, xa cô, tôi không biết khi nào là mùa xuân ở bên kia. Nhiều lần tôi mỏi mệt nghề ăn cắp, định về thăm cô. Nhưng năm nay lại xảy ra nhiều chuyện.


Là đứa duy nhất trong băng có quốc tịch, và có cái xe ôtô con, tôi chuyên việc cầm vôlăng trong các chuyến ăn cắp 'butích', được gọi nghiêm túc là 'đi chợ.’ Ðịa bàn hoạt động của chúng tôi chủ yếu là các thành phố miền đông Thụy-điển như Stockholm, Uppsala, nhưng nếu có mối bở béo chúng tôi có thể đi sang miền tây như Gưteborg, Bohus. Ðược hai năm, hình như gần ba năm, cảnh sát thuộc lòng số xe của tôi và nhẵn mặt cả bọn sáu đứa, nhiều khi chúng tôi vào cây xăng mua cái xúc-xích cũng bị theo dõi.
Chúng tôi phải tìm đồng cỏ bên nước láng giềng Na-uy. Sang Na-uy mới biết việc đi chợ thanh nhàn như đi ăn đám giỗ. Thằng Tư đại huynh, nói “Chẳng trách Liên Hiệp Quốc xếp đây là nước sống sướng nhất thế giới, năm năm liền.” Trong chuyến đi chợ bên Na-uy, tôi gặp Tuyết Anh.

Tuyết Anh là tên ghi trong thẻ đăng ký tị nạn do cảnh sát Na-uy cấp, đương nhiên là tên giả. Tên thật của nó chắc phải đẹp hơn – đấy, cứ coi nước da trắng như thế, đôi mắt to như thế, và bộ ngực căng như thế!
Nó chỉ có mỗi một cái khó coi là cao, cao hơn tôi cái đầu, cẳng lại dài; hôm đi giới thiệu các địa điểm làm ăn với nó, tôi phải chạy mới kịp. Nó từ quê Quảng Ninh, đi xe lửa sang Trung Quốc, từ Trung Quốc sang Ukraina, ở Ukraina chừng sáu tháng thì được chở bằng xe thùng qua nhiều nước, cuối cùng tới Na-uy. Ấy là nó kể với tôi như vậy, như đã khai với cảnh sát, nhưng tôi biết trong mười điều nó nói có bảy điều dối. Nó là 'người rơm' mà! Một người đàn ông Việt Nam nhưng tên Jon cho nó ở nhờ miễn phí trong cái buồng mười hai mét vuông. Khi chúng tôi sang, ông nhét chung vào đó luôn. Chúng tôi ngăn buồng thành hai chuồng, bằng tấm vải nhựa, chuồng đực đặt hai tấm nệm cho bốn thằng đực – Tư, Hỉ, Long và tôi; chuồng cái với một tấm nệm, cho Tuyết và Nam. Chuồng đực có một đài tivi và máy chơi điviđi, chuyên chơi phim lợn. Thỉnh thoảng chúng tôi có chơi phim động và phim hình sự để trau dồi nghiệp vụ.
Hôm nay nghỉ chợ vì mấy đứa kia có việc về Thụy-điển, trong phòng chỉ còn lại hai đứa. Tuyết kể tiếp về chuyến đi của nó, sau tấm màn:
“Thằng dịch vụ tịch thu hết giấy tờ rồi mới thả em xuống một cái siêu thị, bảo vào ăn cắp cái gì thì tự động được nhập trại.”

“Vậy là em có duyên với nghề đi chợ ngay từ thuở ban đầu,” tôi ngắt lời. Tuyết không bình phẩm câu nói lảng nhách của tôi, tiếp:
“Em làm y như nó bảo – ăn cắp cái xì-líp, cảnh sát tới bắt, em xin tị nạn. Thế là nó chở em về bót, lăn tay, chụp hình, làm việc, rồi chở vào trại tị nạn. Ấy, trước khi đủn em ra khỏi xe, thằng dịch vụ nó còn khám người em...”

Tôi lại ngắt lời:
“Nó khám những chỗ nào?”

Tuyết vẫn không để ý lời tôi, tiếp:
“Nó thấy tấm hình mẹ em chụp chung với hai chị em em và hình thằng bạn giai, chửi rủa thậm tệ rồi bắt xé đi luôn.”

“Sao vậy?”

“Ðã bảo là người rơm mà lị, làm gì được có bố mẹ!”

Nhưng thằng dịch vụ và Tuyết vẫn hớ hênh – cảnh sát di trú khám túi quần con Tuyết, thấy cái vé xe lửa khởi hành từ MĂnchen biết nó đã từng xin tầm trú ở Ðức, nên đưa nó vào trại Tanum giam lỏng, chờ xác nhận lý lịch với cảnh sát Ðức và thu xếp giải giao về Ðức. Nó trốn trại, gia nhập bọn tôi. Trong lúc đi chợ, nó ít bị bọn an ninh nghi ngờ, nhờ vẻ lành thánh.

“Thằng cảnh sát nó khám quần em làm sao?” tôi hỏi.

“Thì nó bắt tụt ra. Một con, không phải thằng... Anh hỏi linh tinh thế!”

“Thì... thì bây giờ không linh tinh nữa: Tại sao không bị trả về Trung Quốc hay Ukraina?”

“Việt Nam còn không nhận người rơm, huống hồ mấy nước kia. Chỉ có mấy thằng tư bản nó nhận,” nó đáp. “Vẫn là linh tinh.”

Ngửi mùi nước hoa, tôi ngồi dậy hỏi:
“Anh sang bên đó thăm em nhá?”

“Không! Em đang thay đồ.”

Nếu đó là con Nam, tôi đã ghé mắt vào cái lỗ đục bằng thuốc lá để dòm, nhưng không hiểu tại sao đối với con Tuyết, tôi không dám. Từ hôm gặp nó, ban đêm tôi hay nằm mơ về nó, và lẫn lộn nét mặt của nó với cô Anita. Tôi nằm trở lại, úp cuốn Playboy lên bụng.

“Bạn giai em tên gì?” tôi hỏi.

“Hỏi làm gì?” nó hỏi lại. Tôi tưởng tượng nó đang ngồi trên đệm thoa son phấn, vú cơi ra ngoài cái singlet, như tấm hình trong Playboy.

“Hỏi cho biết...” tôi trả lời, chắc là vớ vẩn lắm; cha mẹ nó còn phi tang, tại sao nó lại khai tên bồ của nó cho tôi. Ðể đỡ phần vớ vẩn, tôi thêm: “Hừ, chẳng nên hỏi.”

Có tiếng gõ cửa mạnh và cửa mở ra ngay, không chờ ai mời vào gì cả – ai có đủ tư cách như thế ngoài ông chủ nhà? Ông Jon là con người đầy bí mật, không ai biết ông tiền rừng bạc biển hay là khố rách áo ôm chuyên nghề giật hụi, ai là vợ con ông ta; không ai biết ông gốc Việt, Tầu hay Căm-bốt. Thằng Hỉ nói thấy ông cặp kè với đào nhí trong quán nhảy Phi Thuyền ở Sài Gòn tuần trước, thằng Tư thề là cùng ngày đó thấy ông đứng trước khách sạn Radisson giữa Oslo. Cả hai thằng đều cả quyết mình không thể nhầm người được, cả hai cùng thấy một người phì nộn đội mũ phớt, đeo kính râm và hút tẩu...

“Tuyết Anh đâu?” ông Jon hỏi. Nghe giọng hơi xấc, tôi không trả lời, chỉ hất hàm sang chuồng bên, nói to:
“Em nghe rồi đấy nhá!”

“Nghe. Tôi ra ngay!” Tuyết nói.

Tuyết vạch màn đi ra. Áo lông gấu đen, giầy ủng đen, lộng lẫy.

“Ði luật sư lo việc tị nạn!” ông nói với Tuyết, nhưng tôi có cảm giác ông phân trần với tôi. Việc đéo gì phải phân trần, tôi nghĩ thầm trong đầu.

Tuyết không nhìn tôi, ưỡn ngực theo ông Jon xuống lầu, để lại cho tôi mùi nước hoa. Tôi bất bình, đồng thời cảm thấy mình bất xứng, bất lực. Tối, tôi tới Viện tắm hơi Alibaba ở số 3427C đường Tronheim chở về một con Thái-lan để giải tỏa ba cái 'bất' kia, và cái mùi nước hoa của con Tuyết. Một đêm bay hết 'tiền chợ' của tôi, hết luôn mấy trăm lẻ tụi nó giao tôi đi mua hai chục cái 'Norgespakken'. Cái thùng giấy có cái tên rất hách đó – 'Hộp Na-uy', đúng là siêu kỹ, bên Thụy-điển không có, chỉ có Bưu điện Na-uy biết chế ra, khoe rằng rất bền chắc, rất tiện lợi, lại in tem sẵn, nhét bao nhiêu tùy ý, đừng quá mười kilô.

Nhưng còn một điểm tinh vi mà chính người sáng chế cũng không biết hay không ngờ: nó cản được mắt thần; hàng hóa để bên trong, máy rà ở quầy tính tiền và cửa ra không phát hiện được. Tuy chưa được đăng ký bằng sáng chế, thật sự người đầu tiên trên thế giới khám phá ra khả năng tuyệt vời của cái Norgespakken là lão chú con Nam. Lão bán bản quyền sản phẩm trí tuệ cho chúng tôi với ba chục ngàn kroner, theo giá tình nghĩa với con cháu. Ðáng tiền, bởi vì việc đi chợ từ đó trở nên vô cùng giản đơn, chỉ hai lần đã đủ vốn. Trước kia chúng tôi bị bắt lia chia, từ ngày có cái thùng, trong vòng ba tháng chỉ bị bắt bốn lần. Tất nhiên, mấy thằng gác cửa hiệu bắt, giao cho cảnh sát, cảnh sát giải về bót, hỏi mấy câu vớ vẩn rồi lại thả.

Phiên họp trong chuồng đực. Thằng Tư cằn nhằn tôi trong lúc cả bọn hút cần sa, cuối cùng nó vẫn thảy cho tôi năm trăm.

“Ði mua thùng đi, đồ con khỉ!” nó nói. “Mua ở hai ba nơi khác nhau ấy, bị để ý rồi đấy.”

“Ðéo! Ðể ý thì làm đéo gì?” con Nam sủa. Nó cà lăm, nhưng lạ lắm, hễ đệm 'đ.' vào thì bớt cà lăm. Tôi nhìn nhanh con Tuyết đang ngồi ôm cái gối đen in hình chữ thọ vàng của tôi. Nó không hút.

“Câm mồm!” thằng Tư quát con Nam.

“Cũng phải biết để đề phòng,” Tôi trầm giọng. “Mày nói đi, Tư!”

“Hừ, Long Trảo thấy mình bắt đầu khấm khá, đã nhắn khéo đòi bảo vệ. Lại còn báo chí nữa, nó đăng rầm lên rồi. Chúng mày đéo chịu đọc báo gì cả.” Cả bọn cười hô hố.

“Mày làm như mày biết đọc báo,” thằng Hỉ nói.

“Thôi, không nói linh tinh nữa,” Tư vo tròn. “Ðánh vài lần nữa, đủ tiền về Việt Nam mỗi đứa cưới con vợ, rồi tạm nghỉ.”

“Tao cưới vợ Việt Nam ra tiền, chứ đời nào lại tốn tiền!” thằng Long thêm.

“Nhất là tiền mồ hôi nước mắt,” thằng Hỉ nhất trí.

Hôm nay Thằng Tư và con Nam, hai đứa có tay nghề cao, đi 'siêu thị'. Còn tôi, Tuyết và thằng Hỉ chơi đồ tầm thường như dao cạo râu Gillette, son phấn Max Factor, nước hoa Elisabeth Eden, bút chì kẻ lông mày Mascaca, dầu cá do Na-uy chế tạo. Ðược bao nhiêu, tôi lại chở đi giao cho 'chị Năm', bao nhiêu mụ cũng cân tất. Mụ làm gì với những thứ đó, quả tình tôi không biết.

Con Tuyết và thằng Hỉ vào tiệm, thằng Hỉ đứng một chỗ với cái thùng, con Thuyết đi lượm đồ chất vào thùng, lưng thùng thì thằng Hỉ lấy một xấp băng vệ sinh 'siêu mỏng siêu thấm' (tôi học được câu quảng cáo trong đài Việt Nam) phủ lên trên, hai đứa cùng ra quầy tính tiền. Trong khi con Tuyết móc tiền, thằng Hỉ làm bộ hổ thẹn vì phải dính tới cái đồ đàn bà con gái, nói ấm ớ tiếng Thụy-điển “Ba cái...” và chỉ vào xấp băng vệ sinh nằm trên, con ngồi két thấy chỉ có một xấp mà khách hàng nói ba thì tin là khách quá thành thật, không mở thùng ra coi, hoan hỉ tính tiền ba xấp băng, Tuyết trả tiền, hai 'vợ chồng' ung dung ra xe ôtô tôi chờ sẵn. Còi báo động ngủ im thin thít.

Nhưng tôi vừa mở máy xe thì một xe cảnh sát lao tới chận ngay trước đầu xe tôi. Bị bắt là chuyện thường, nhưng lần này Hiệp hội nhà buôn đã nhân danh ba mươi tám cửa hàng tố cáo một tổ chức ăn cắp làm thiệt hại hàng triệu bạc của họ. Khi mụ thông dịch đọc cho tôi nghe lời tố cáo đó, tôi thấy mình oan vô cùng.
“Làm gì nhiều như thế!” tôi nói.

“Vậy là bao nhiêu?” thằng cảnh sát hoạnh lại.

“Ðéo biết bao nhiêu,” tôi nói với mụ thông dịch. “Chị dịch lại cho nó nghe như thế, nhá.”

Ra tòa, cảnh sát cóc tìm được bằng chứng về những vụ trước, nên thằng cha chánh án chỉ phạt mỗi đứa 15 ngày tù hoặc phạt vạ 5000 kroner, muốn chọn đàng nào thì chọn. Chúng tôi chọn trả tiền thay vì ngồi tù. Xong, nó tống chúng tôi lên xe bít bùng chở về Thụy-điển. Trừ con Tuyết.

Tôi đổi ôtô, quay lại Na-uy, âm thầm, không cho mấy đứa bạn biết. Không phải để đi chợ, mà đi tìm con Tuyết. Thú thật: tôi thích nó mất rồi.

Mobil của nó đóng, sáng trưa chiều tối, lúc nào cũng phát ra một câu đáng ghét 'Ðiện thoại tắt hoặc ở ngoài tầm.' Ngoài tầm, hai chữ đó tôi nghe thường, nhưng bây giờ cảm thấy đau xót. Nó không còn ở nhà ông Jon ở Toeyen nữa, không ở trại tầm trú Tanum, không ở trại tầm trú Gardermoen, không ở nhà chính của ông Jon ở Vika. Vậy nó đã bị trả về Ðức rồi. Nó ở ngoài tầm. Tôi buồn bã tới nhà tắm hơi tìm con Thái điệu nghệ hôm trước, tên Lili.

“Lili bận, mày chờ được không?” mụ cai gà béo trả lời.

“Chờ bao lâu?” tôi hỏi và thả người xuống sopha, làm như sẵn sàng chờ bao lâu cũng được. Ở Oslo này tôi không có nơi nào để về; bên Thụy-điển, xã hội đã đòi lại căn hộ vì tôi không chịu bán ôtô để trả tiền nhà.

Mụ béo mở sổ hẹn coi, có điện thoại reo, mụ trả lời vắn tắt. Xong quay lại với cuốn sổ to như cuốn sổ hẹn bác sĩ, trả lời:
“Có thể khuya ạ!”

Tôi không trả lời, ngoảnh mặt ra cửa sổ có treo cái đèn ông sao. Qua cửa kính tôi thấy cây thông hình chóp ở sân sau lấp ló đèn xanh đỏ trong tuyết. Tôi biết sắp tới lễ Giáng Sinh. Tôi nghiêng đầu nhìn thấy một khoảnh trời đen kịt. Tôi nhìn đồng hồ, mới ba giờ chiều. Giáng Sinh, thiên hạ lại sắp lên cơn sốt.

Phần tôi rất dửng dưng. Tôi chỉ cảm thấy hơi nhớ cô giáo Anita, người đã tặng tôi cái mũ len đan tay mầu nâu, “Ðể hợp với mắt Con”, cô nói. Còn gia đình nuôi, tôi nửa nhớ nửa giận. Ðã ba bốn Giáng Sinh tôi không trở về gia đình đó, không biết con Linda lớn tới đâu. Tôi hay bóp vú nó, nó không chống cự, nhưng một lần tôi bóp nó ở bờ suối, bố mẹ nuôi bắt gặp, đuổi tôi. Tôi vào nhà tập thể ở chung với bọn Tây con, Tây con cũng không chơi với tôi. Ðủ mười tám tuổi, tôi đòi xã hội cho ra ở riêng. Nhưng ở riêng tôi càng thấy cô độc hơn. Người Việt gốc Hoa không chơi với tôi, người Sài Gòn cũng không chơi với tôi.

Tôi ra ngoài, đứng dưới cây thông châm điếu cần sa. Sương đặc, tôi thấy mình như con gà bị vặt lông chưa cắt tiết, đứng trong cái tủ lạnh đang bốc hàn khí, xung quanh là bốn bức tường cao, cửa sổ đèn mờ, mà tôi tưởng tượng thành những ngăn tủ đựng cà chua thối, trứng gà thối, xà-lách thối, phô-mai mốc. Hút xong điếu thuốc, tôi mất hứng, định đi ra.

1   2