Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010

Về một xóm quê

Võ Phiến

(Tiếp theo và hết)

Ðến năm tôi lên bảy, ba tôi mới trở về làng với hai chiếc va-li to tướng làm cả xóm vây quanh nhà tôi suốt một buổi chiều để trầm trồ khen ngợi về điềm hưng thịnh của gia đình. Tuy thế mà ba tôi cũng không thể ở nhà được quá hai năm: ở xóm quê tôi sinh kế quả thực là quẫn bách. Lần này ra đi ba tôi đem cả má tôi và đứa em trai mới sinh ra, đi vào Nam lo làm ăn. Cảnh nhà lại càng xơ xác. Những buổi trưa – lại vẫn những buổi trưa – tôi nằm ngủ lơ mơ bỗng giật mình thức giấc, nheo mắt nhìn ra đám chuối sau vườn đứng dưới ánh nắng chói chang, vài đám mây trắng chết trân trên đầu, nghe vang lên tiếng con chim khách lảnh lót như tát vào tai, tôi thấy tất cả cái trống trải vắng vẻ của không gian trưa hè hắt lọt vào lòng. Và tôi thấm thía nỗi buồn của ông tôi khi người nhìn thẳng vào cái quạnh vắng của cảnh nhà mà thét lên như cố xua đuổi: “Ãi ãi, quan hầu nhập yết nhập yết!” Tôi thấm thía tất cả ý xót xa, ái ngại, chán nản trong cái liếc nhìn của bà tôi.


Chú tôi thỉnh thoảng ghé về một ngày, ba tôi thỉnh thoảng gửi về một lá thư. Anh Hai tôi tập nắm chuôi cày. Và tôi thì may mắn được cắp sách đi học. Cuộc đời của chúng tôi đang diễn ra như thế thì chiến tranh nổ ra giữa Pháp với Ðức.

Cái kết quả đầu tiên của cuộc chiến tranh ấy có những chỗ tốt đẹp không ngờ. Ông tôi đang sống uể oải, buồn nản, bỗng nhiệt thành hoan hỉ lạ kỳ. Thì ra đã bao nhiêu năm giữ một chức vụ nhỏ dưới chế độ bảo hộ, ông vẫn ôm giữ mối thâm thù nhẫn nhục rất kín rất nhũn của lớp nhà nho đối với quyền hành người Pháp ở xứ này, lớp nhà nho mà lịch sử đã dần dà thu hết sinh lực. May đâu dân tộc Ðức lại đập ngay vào nước Pháp để cho ông tôi hể hả biểu lộ một hình thức đặc biệt của tinh thần phản đế.

Chiều chiều tôi đi học về, cắp theo một tờ báo. Hai ông cháu xúm lại hăng hái nghiên cứu về những vấn đề mà có lẽ bộ tham mưu của Hitler cũng ngại ngùng. Chúng tôi tính xem trong bao lâu thì quân Ðức chọc thủng chiến lũy Maginot, tính xem có cần xua quân tràn qua Bỉ và Hòa Lan không. Trong lúc đó thì cả hai ông cháu đều mù mờ về vị trí các nước ấy. Nói chung là về vị trí mọi nước. Ông tôi bảo tôi mang cái bản đồ trong quyển địa lý lớp nhất ra, rồi người đeo mục kỉnh lên. Tôi dò dẫm hồi lâu, chỉ cho người đâu là nước Ðức, đâu là nước Pháp. Người khoan khoái ngắm nghía:
– Ờ! Nước Ðức đấy hả? Nước Ðức thật đấy à! Ở cái chỗ trông đắc địa quá.

Sau khi ngắm đi ngắm lại kỹ lưỡng những ô đỏ, ô xanh trên bản đồ ấy như hai nhà tướng số xem nốt ruồi để luận về hậu vận, lần nào chúng tôi cũng đi đến kết luận là nhất định Ðức sẽ tiêu diệt Pháp. Và chúng tôi cũng còn định cả một thời hạn tối đa cho quân đội quốc xã phải tiến đến Ba-lê.

Những điều tính toán của chúng tôi tiếc thay lại không được công bố để bổ túc cho quyển Mein Kampf. Dù sao đó cũng là phương tiện cách mạng phản đế hợp lý nhất mà một ông hương bản với một cậu học sinh tiểu học có thể phối hợp sử dụng.

Ðược chúng tôi ủng hộ như thế ít lâu, quả nhiên Ðức đánh bại Pháp. Ông tôi và tôi cùng sung sướng và kiêu hãnh như chính mình đã dự một phần cam go trong chiến cuộc. Tôi thầm mong cho chiến tranh cứ tiếp diễn và sẵn sàng vui lòng tiếp tục điều khiển nhiều trận đánh như trận Pháp - Ðức nữa.

Sau đó thì ông cháu tôi cùng nhau ủng hộ nước Nga. Cái nguyên cớ đầu tiên nào đã khiến chúng tôi muốn đứng bên cạnh thống soái Staline, bây giờ khó bề nhớ lại cho rành mạch. Chỉ nhớ chính vào lúc ấy chúng tôi bắt đầu nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản. Chuyện ấy xem ra cũng chẳng tốn mấy công sức. Ông tôi suy diễn hai chữ cộng sản ra đến nơi đến chốn, rồi đối chiếu với những lời đồn đại tản mác lâu nay trong quần chúng làng Thanh Bình về chủ nghĩa cộng sản ở nước Nga, lại cẩn thận đem ra đối chiếu với kiến thức của các lý hương các làng kế cận có dịp giao du. Thế là hai ông cháu đủ am tường về chủ nghĩa nước Nga. Ông tôi thường tiếc thầm rằng nếu cả Khổng Tử cùng Lão Tử ra đời chậm đi hăm lăm thế kỷ thì Các Mác đã kết nạp được thêm hai đồng chí đắc lực, có thể mời giữ chức cố vấn. Những hôm nhà có ngày kỵ, các cô và dượng tôi về đông đủ, ông tôi khoe với mọi người rằng Các Mác sắp sửa diễn lại trên thế giới cuộc sống của đời vua Nghiêu đúng như lời sách thánh hiền đã nói ngày xưa. “Sắp sửa rồi đấy! Chỉ còn trận đánh nhau với Ðức này nữa là xong. Rồi thì là thế giới đại đồng: đêm ngủ không cần đóng cửa, đồ vật rớt ngoài đường không ai thèm lấy; mọi người đều đủ thóc mà ăn, đủ vải mà mặc, kẻ già người yếu có chỗ nuôi dưỡng.”

Bà tôi vừa hỏi dò dẫm vừa giả vờ khiêm tốn từ chối một hạnh phúc quá lớn lao: “Còn lâu chứ dễ gì đã cộng sản ngay được? Lớp tuổi mình chắc gì được hưởng. Sợ e rồi chết rụi cả trước khi cộng sản tới!”

Hai ông cháu tôi cùng quả quyết cam đoan:
– Cũng chẳng mấy chốc nữa đâu! Sắp sửa rồi! Sắp sửa rồi! Thắng một trận này là xong!

Rồi bỏ rơi các người đàn bà, chúng tôi xoay ra bàn với nhau về chiến sự ở Nga. Từ ngày xảy ra chiến tranh ở Âu châu, nhờ được theo học chữ Tây, tôi được ông tôi nâng lên một địa vị quan trọng. Những khi bàn luận như thế, điều làm cho chúng tôi an tâm nhất là cái diện tích mênh mông của nước Nga. Lối hành quân của các tướng lãnh Ðức thật là bạo tàn mãnh liệt, nhưng chúng tôi đã quyết tâm rồi. Chúng tôi nhất định không bỏ rơi nước Nga xô-viết. Ông cháu tôi tính toán với nhau, quyết định đem thí một nửa nước Nga để làm kiệt quệ sinh lực của Ðức, rồi sau này mới liệu thế mà tấn công. Kế hoạch ấy được đem ra phổ biến rộng rãi khắp làng Thanh Bình. Do đó mà trong những ngày nguy nan nhất ở Stalingrad cả Ba Hề, Hai Nhiên, cả Bái Công cùng xúm nhau góp ý kiến với chúng tôi. Rồi cộng sản mon men lần lần đến nước ta. Rồi khi cách mạng hô khẩu hiệu ngay trước cổng nhà chúng tôi, thì ai nấy đều tươi tỉnh như vừa đánh thắng cá ngựa!

Chú tôi cũng vừa về làng đem theo thím ký tôi, hiện thân của đức hạnh, và một đứa con trai. Sự tình cờ đã cho chú gặp ngay cuộc cách mạng thì chú cũng chẳng có ý tỏ ra ghẻ lạnh. Chú nhận một chức ủy viên Lao Ðộng trong ủy ban xã. Từ đó người trong làng gọi chú tôi là ông Lao Ðộng. Cố nhiên thím tôi phải được gọi là bà Lao Ðộng. Các cô tôi đều cùng một quan niệm cho rằng chức tước của cách mạng thật ngô nghê. Ông tôi thì đã từng nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản từ trước nên hiểu rằng chú tôi đã chọn một chức vị vinh dự. Còn bà tôi thì người bằng lòng đổi trọn cả cuộc cách mạng mùa Thu để cho chú tôi được thiên hạ gọi là thầy ký như cũ. Thế nhưng lịch sử cứ đi thẳng con đường định mệnh của nó, và chú thím tôi cứ nghiễm nhiên thành ra ông Lao Ðộng và bà Lao Ðộng, không có cách gì sửa đổi được, mặc cho những ý kiến dị đồng xôn xao trong gia đình.

Dần dà người ta lại được biết thêm rằng cách mạng còn lắm điều mới lạ nữa. Cô Bốn tôi chạy về mách với bà tôi nửa kiêu hãnh nửa ngượng ngùng rằng cô đã hóa thành bà Quân Sự rồi. Chao ôi! Thực là mầu nhiệm! Nếu không có cách mạng đố ai biết được dượng Bốn tôi có tài thao lược để đảm nhiệm chức vụ ủy viên Quân Sự xã? Và Bái Công cũng đứng ra nhận chức ủy viên Ngoại Giao. Cứ thế mỗi làng đều có đầy đủ ủy viên Văn Hóa, ủy viên Xã Hội v.v... Bao nhiêu là người trong làng Thanh Bình bỗng nhiên thấy mới ra vì cách mạng. Thế mà cách mạng chưa chịu ngừng lại ở các ông bà ủy viên. Nó cứ nhất định tiến sát xuống quảng đại quần chúng. Hầu như mọi người đều có danh hiệu, mỗi xóm có vô số bậc lãnh đạo, gọi là tổ trưởng, đoàn trưởng, đội trưởng, xóm trưởng, liên gia trưởng, vùng trưởng...

Ðã từng nghiên cứu về chủ nghĩa của Nga xô như ông tôi rồi cũng đến phải ngẩn ngơ. Người không ngờ rằng để tiến về cảnh thái bình thịnh trị của thời Nghiêu Thuấn lại cần phải ghép người ta vào những tổ chức chặt chẽ như thế, đặt ra nhiều kẻ cầm đầu như thế. Tuy vậy không vì lẽ gì mà nhất đán người có thể dễ dàng rời bỏ chủ nghĩa nước Nga. Người vui vẻ giơ nắm tay lên ngang đầu chào hết các đồng chí già trẻ trong làng Thanh Bình.

Từ đó về sau suốt chín năm, xóm đồi của chúng tôi đã làm cách mạng như thế nào thực là ngổn ngang trăm nỗi không tài nào kể hết. Chỉ biết khi chuyến tàu cuối cùng chở bộ đội tập kết ra Bắc rời khỏi quân cảng Qui Nhơn thì xóm làng như giật mình ngơ ngác tưng hửng, tựa hồ một con đồng đang lảo đảo múa men chợt tỉnh mùi nhang, sực nhìn lơ láo. Và cũng tựa hồ một con bệnh kiệt quệ, cạn sinh lực: gần hết những kẻ trai tráng không còn ở xóm làng nữa.

Riêng gia đình tôi thì trong những năm quẫn bách người thím đức hạnh mà chú tôi đã dày công tìm kiếm cũng không có điều kiện thích hợp để phát huy đạo đức. Thậm chí trong cuộc sống thiếu thốn giữa thím với anh chị Hai tôi có khi không tránh khỏi đôi điều xung đột làm cho bà tôi rất khổ tâm. Nhưng rốt cuộc, sau mọi gian khổ, bà tôi chẳng còn, chú tôi cũng mất, anh và chị Hai tôi rồi cũng qua đời. Và thím tôi thì thật đã vô cùng cơ cực.

Riêng ông tôi vẫn còn ôm những hoài bão lớn lao. Ngày ngày ông ngồi mơ ước sự sụp đổ của đế quốc Nga xô.

Cuộc đời dừng lại ngẩn ngơ chẳng bao lâu, rồi cuộc đời lại ro ro tiếp diễn. Chính quyền mới thiết lập. Và phó lý Biên trở ra tham chính, quản trị cả thôn. Thời kỳ nghiêm trọng chưa qua nên thôn trưởng cần được võ trang: ông võ trang bằng một con roi mây. Bà con xóm gò quấn quýt xung quanh phó lý Biên (bỡ ngỡ như con đồng vừa tỉnh mùi nhang khói), ngơ ngác ngẩng tìm một hướng tin. Thì chẳng biết từ cõi hư vô nào phát ra cái dư luận cho rằng phải quì xuống sụp lạy trước một đấng chí tôn mới ra con người lương thiện, rằng không tín ngưỡng không thể gọi là đứng đắn. Trước khi ông thôn trưởng kịp ra tay tìm xét lai lịch của dư luận kia thì dân xóm gò đã rối rít lên, kẻ chạy vào nhà thờ, người chạy vào nhà chùa. Hai đấng cứu thế cơ hồ không kịp chìa tay ra ôm lấy chúng sinh ùa ngã vào lòng.

Tôi đứng cách xa mười đám ruộng trông vào xóm tôi trong buổi chiều vắng vẻ. Ở phương tây có một đám mây đậm màu lặng lẽ nhìn một đám mây đậm màu lặng lẽ ở phương đông. Cuối xóm, lại một đám mây đỏ bầm đứng yên lặng bên cạnh dăm cái tàu dừa cũng yên lặng, không phe phẩy một lá nhỏ. Hai bên định đương đầu nhau hàng giờ. Nhưng rồi đám mây buồn bã xịu màu xuống, tái dợt dần, chuyển ra xanh lạt, rồi xanh đậm. Trên đầu dãy núi tím, mây vẩy tê tê, màu xám. Dần dần bao nhiêu vẩy tê tê đều hóa ra lông chim phơi phới, và trở màu thâm đen...

Tôi ngẩn ngơ, lạc lõng. Ra chiều chiều, những buổi chiều long trọng như thế, xung quanh xóm tôi vẫn hằng bố trí một cuộc mây núi bốn bề thi nhau, đùa nhau, vây nhau, biến hóa đổi màu thay sắc lặng lẽ bao la trong một trò chơi lớn mà cả xóm gò chẳng ai hay biết đến!

Nhìn một ánh lửa đỏ loe ở nhà Bái Công nhảy chấp chới trong bếp, tôi tự nhiên cảm thấy tất cả cảnh côi cút bé mọn ở cái sinh hoạt của dân cư xóm gò. Qua bao nhiêu thời gian rồi! Bao nhiêu lần gió thổi cờ bay phất phới trên cao... Ðến bây giờ đêm đêm phó lý Biên vút vút con roi kỷ luật, giữ yên tĩnh cho xóm làng. Và ông Bái Công hào hoa lại lui cui nhen một ánh lửa chấp chới trong buổi hoàng hôn...

Tôi tiếp tục đi về xóm. Về để kể lại cho ông tôi nghe cái lúc chị tôi mất ở nhà thương, và để nói với ông rằng những dò hỏi tìm kiếm về tin tức của gia đình ba má tôi ở trong Nam đều không có kết quả.

Tôi muốn kể chuyện dâu bể của xóm tôi. Nhưng quả rằng xóm quê tôi tầm thường chẳng phải là nơi linh địa. Cho đến những điều dâu bể cũng tầm thường nhạt nhẽo, chẳng thành chuyện ra hồn. Chỉ nghe một cái gì buồn rả rích như từng giọt từng giọt của trận mưa dai dẳng kéo dài, kéo dài qua... qua cái gì? Qua suốt mười mấy năm dài chưa dứt sao?

1957

1 Tuồng Tam Quốc (tú Thận).