Thứ Ba, 21 tháng 9, 2010

THƠ VŨ HOÀNG CHƯƠNG SAU THÁNG TƯ 1975

Tết Bính Thìn

Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn om xòm r?i bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.

HỌA THƠ TẢN ĐÀ

Thơ khóc Tết

Ngoảnh đi ngoảnh lại lại đến Tết
Ông đến độ này mới thật chết
Gạo tẻ đong chịu nếp thì không
Áo vợ rách tan chồng cũng hết
Cỗ bàn duy có ba ông Công
Xu kẽm thì không một vẩy hến
Thì ra lúc túng văn càng hay
Lại được một bài thơ khóc Tết.
Tản Đà
Bài họa
Cậu Ấm khóc đâu là khóc Tết
Phải đâu núi Tản sông Đà chết
Sông dù vặn được tuổi càng thêm
Núi có dời đi duyên chẳng hết
Kìa bánh đem lòng bóc giữa mâm
Lại Rồng phun thuốc dâng đầy hến
Thơ đang vời rượu bật lên cười
Vang Bính Thìn Xuân Nam Việt Tết.

HỌA THƠ DƯƠNG KHUÊ

Thơ tự thọ

Năm mươi lăm tuổi hãy mừng ta
Còn bốn mươi năm nữa đó mà
Đội đức hải sơn ngày tháng rộng
Gẫm mình râu tóc tuyết sương pha
Cung đàn ả nguyệt còn yêu trẻ
Chén thọ lăng xuân vẫn kính già
Lộc nước ơn vua ban đã khắp
Được riêng mạnh khỏe phúc nhà ta.
Dương Khuê

Bài họa
Sáu mươi hai tuổi hãy mừng ta
Cũng trích tiên xưa tuổi ấy mà
Đời đã xong rồi mau tịch mịch
Sống chi nhiều nữa để phôi pha
Văn chương đến buổi văn nằm ụ
Tết nhất coi như Tết dối già
Tái diễn năm nay màn “tróc nguyệt”
Không chừng vai chính sẽ là ta.
Xuân Bính Thìn 1976

HỌA THƠ NGUYỄN KHUYẾN
Thơ cảm xuân
Năm nay tớ đã bẩy mươi tư
Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ
Lúc hứng uống thêm ba chén rượu
Khi buồn ngâm láo mấy câu thơ
Bạn già lớp trước nay còn mấy
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Thử xem trời mãi thế này ư.
Nguyễn Khuyến

Bài họa
Di cư từ một chín năm tư
Đón Tết mừng xuân chỉ ậm ừ
Có đất ngòi đây là đất hứa
Gõ đầu trẻ cũng đứng đầu thơ
Ngã ra thì ngã thân Từ Hải
Chôn khó mà chôn mộng Tố Như
Nợ đã sông Tiền xuôi ngọn nước
Ai còn đeo đẳng khúc đuôi ư.

HỌA THƠ BÀNG BÁ LÂN

Ba trăm năm sau
Chắc gì ba trăm năm sau
Dễ ai vào nổi cơn sầu nằm đây

Đọc mấy vần thơ gửi tới nhau
Mà thương mà xót dạ thêm sầu
Ta buồn nhìn nắng soi hiên vắng
Mình giận nghe mưa rót mái lầu
Ngõ hẹp sầu dâng vương lối cỏ
Đời tàn bóng ngả xế nương dâu
Ba trăm năm nữa ai tri kỷ?
Hổ với người xưa, thẹn với sau.
Bàng Bá Lân

Bài họa
Thơ đoạn trường kia liệu khất nhau
Vay không vơi hận, trả thêm rầu
Thơ vay bằng huyết tan vào sử
Ngọc trả thành mưa đọng dưới lầu
Trước đã trời xanh vay má phấn
Rồi xem biển lớn trả nương dâu
Mình vay mình hãy riêng mình biết
Để trả cho mình những kiếp sau.

Hoàng Hạc Lâu
(Dịch bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu)

Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mất
Trắng một màu mây vạn bạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi.

Cảm đề

Hoàng hạc Lâu - Nguyễn Du
Đã bao giờ có hạc vàng đâu
Mà có người tiên để có lầu
Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở
Làm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau
Hạc chưa bay khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Trăng gió hão huyền như khói sóng
Nồi kê chín tới nghĩ mà đau!

Đọc lại Nguyễn Du

Văn tự hà tàng vi ngã dụng
Cơ hàn bất giác thụ nhân diên

Chẳng dùng chi được văn tài
Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ
Phút giây chết điếng hồn thơ
Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau
Chắc gì ba trăm năm sau
Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây
Nếu không cơm áo đọa đầy
Như thân nào thịt xương nào bỗng dưng
Chết theo vào đến lưng chừng
Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi
Nửa chiều say ngất mê tơi
Khúc đâu lơ láo mảnh đời thi vương.

Đọc Thôi Hộ

Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Ngày này xưa cổng này đây
Hoa đào má đỏ cùng lây ánh hồng
Đã ngưng một điểm thời không
Mở ra ngoài phía chiếc lồng thiên cơ
Đón vào sâu tận cõi bờ
Chưa ai vào được hay mơ được vào
Chợt nghe má đỏ hôm nào
Cười lên từ cổng hoa đào nhặt thưa
Cổng ơi mở cũng bằng thừa
Đừng tin kích thước gửi vào Đường thi
Chàng Thôi ngắm hão rồi đi
Một khung chết đứng mong gì ngàn sau.

Thị Lộ

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn

Còn gì đây hết gì đây
Chiếu nhà vua gái thơ ngây biết gì
Chiếu gon ông hỏi làm chi
Dệt nên tôi cũng bán đi là thường
Hồ Tây còn nước còn gương
Vai tôi còn chiếu tuy... giường thì không
Ông còn đất trải không ông
Mà toan mua chiếu mất công hỏi người
Sao ông không hỏi ông trời
Hỏi thân này trước hỏi đời hôm nay
Còn đem non nước làm rầy
Cả chiêm bao, cả chiếu này nữa ư?

Cao Bá Quát

Minh nhật dục từ Nam phố đạo
Hà nhân cánh xướng Bắc cung thanh

Đường Thanh Nghệ Tĩnh chon von
Nhịp ba cung Bắc ai còn hát đây
Cánh chim lượng gió đong đầy
Khói Hoàng đô thoắt liền mây Đế thành
Rồng Lê, Phượng Nguyễn tung hoành
Chẳng e lưu xú, chẳng dành lưu phương
Ba hồi trống giục pháp trường
Máu tuông phách đựng phố phường còn mưa
Cơn buồn gió lọt mành thưa
Mấy mươi giông bão cho vừa nhịp ba
Nào ai đáng mặt danh ca
Mời ai danh sĩ Bắc hà về nghe.

Bà Huyện Thanh Quan

Người xưa cảnh cũ giờ đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu

Nước trong dòng đục thương ai
Chiều sương gió tiễn sô gai bốn bề
Yếm khăn đi cũng chẳng về
Nghiệp văn chương ấy nặng nề đến đâu
Lạ gì mưu lũ trọc đầu
Cung vua dìm tiếng thơ sầu Thanh Quan
Dễ gì khi qua đèo Ngang
Chim kêu lại để gan vàng sót sa
Mảnh tình riêng ta với ta
Phải đâu tâm sự một bà Huyện thôi
Nước còn chau mặt không trôi
Hồn thu thảo láng chuông hồi cổ kim.

Hồ Xuân Hương

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắng dài

Đo xem đất có dài chăng
Với tay xem có thật rằng trời cao
Ôi sau đây hận đây sao
Văn chương hồ thỉ hôm nào tung hê
Sầu không nở trắng hoa lê
Hận không chôn chặt bên lề cỏ xanh
Cán cân rơi mất thôi đành
Túi càn khôn thắt được danh bao giờ
Còn tên còn tiếng lửng lơ
Còn son để yếm còn thơ để đời
Sân đu cọc nhổ còn chơi
Ngã ra lại có đất trời ở trong.

Trước một ngày trao

Bè mây đã nát thu phong tứ
Trùng cửu thơ còn trao ngất ngư
Tháng cuối mùa trăng ngày hội hữu
Năm đầu gác bút động hoa hư
Thơ không thoái vị, trà say khướt
Người vẫn đăng cao, mộng ngọt lừ
Nam Bắc sương im đầy bóng nhạn
May ra bệnh cũng xuống dần

Thủ bút Vũ Hoàng Chương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét