Mọi ngôn ngữ đều có những câu nói ngắn gọn nhưng chứa đựng
những nhận xét sắc bén và cảnh giác khôn ngoan về kinh nghiệm sống.
Tên của những câu nói ngắn gọn đó là tục ngữ trong tiếng Việt, súyu
(俗語) trong tiếng Tàu, proverb
trong tiếng Anh, proverbe trong tiếng Pháp, dicho trong tiếng Tây ban nha, proverbio
trong tiếng Ý, và Sprichwort trong tiếng Đức.
Với khả năng tóm gọn ý tứ, tô điểm cho lời văn thêm mặn mà, và chứng
minh lý lẽ một cách hùng hồn, tục ngữ đóng một vai trò đáng kể trong ngôn ngữ
thường nhật.
VỀ HÌNH THỨC CẤU TẠO
Về hình thức cấu tạo, khá nhiều tục ngữ của nhân loại giống
nhau ở điểm chúng có thể được chia ra làm hai phần đối xứng qua một lối
văn “biền ngẫu” với cú pháp và từ vựng giản dị tương ứng, âm điệu và âm vận song
hành. Quả thực, các tục ngữ tương đương của Xa mặt, cách lòng trong một
vài ngôn ngữ khác cũng cho thấy một hình thức cấu trúc và một nội dung tương đồng với
tiếng Việt: Out of sight, out of mind (Anh: Khuất mặt, khuất tâm trí); Loin
des yeux, loin du coeur (Pháp: Xa mắt, xa tim); Aus den Augen, aus dem Sinn
(Đức: Khuất mắt, khuất tâm trí); Ojos que no ven, corazón que no siente
(Tây ban nha: Mắt không thấy, tim không cảm); và Lontano dagli occhi, lontano dal
cuore (Ý: Xa mắt, xa tim).
VỀ NỘI DUNG TƯƠNG ỨNG
Sự tương đồng trong nội dung của các tục ngữ thế giới là một ngạc nhiên thú vị.
Chẳng hạn, các tục ngữ Yêu ai yêu cả đường đi (lấy từ câu
ca dao Yêu ai yêu cả đường đi // Ghét ai
ghét cả tông ti họ hàng) của người Việt, Love me, love my dog của
người Mỹ, và Ái ốc cập ô (爱
屋 及 烏) của người Tàu đều
có chung một ý nghĩa.
Có khác chăng thì chỉ là phương tiện diễn tả. Người Việt yêu
thơ nên đề cập đến người mình yêu và con đường mang dấu chân người ấy; người
Mỹ mê chó cho nên khi mê ai thì cũng mê chó của người ấy luôn cho tiện
việc; và người Tàu thì diễn tả kinh nghiệm ấy như một bức tranh thủy mặc,
rất có thể đã căn cứ vào một điển tích văn học nào đó. Trong tiếng quan thoại, Ái ốc
cập ô phát âm là [àiwu-jíwu], với điều đáng nói ở đây là lối chơi chữ:
Hai từ [wu] đồng âm nhưng dị nghĩa; từ thứ nhất nghĩa là “nhà” và từ thứ hai
nghĩa là “quạ.” Vậy thì nghĩa đen của tục ngữ này là nếu ta yêu một căn nhà nào
thì ta yêu luôn cả mấy con quạ (một loại chim đen đủi xấu xí với tiếng kêu buồn
thảm) đậu trên mái nhà đó. Ba tục ngữ vừa kể nói lên một sự thực tâm lý
khó chối cãi mà tiếng Anh mệnh danh là “halo effect” (hiệu lực hào quang).
Ái ốc cập ô
Nét tương đồng đến mức ngạc nhiên trong nội dung các tục ngữ
thế giới tốt phần là do bản chất đại đồng của kinh nghiệm đời sống loài người. Thí
dụ, để nhắn nhủ người đời không nên hấp tấp mà hỏng việc, tiếng Việt có câu Đi
đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá mà quàng phải dây?
More haste less speed
Cùng một nội dung ấy là các câu sau đây: More haste less speed (Anh:
Vội bao nhiêu chậm bấy nhiêu); Plus on se hâte moins on avance (Pháp:
Vội bao nhiêu càng ít tiến bấy nhiêu); Chi va piano va lontano (Ý: Ai đi chậm
thì đi xa); và Dục tốc bất đạt (慾
速不達) (Hán: Vội vã thì chẳng tới
đâu).
Plus on se hâte moins on avance
VỀ NỘI DUNG TỤC NGỮ CÙNG GỐC
Nếu nội dung các tục ngữ tương đương trong các ngôn ngữ cùng gốc
(như Pháp và Tây ban nha, hoặc như Anh và Đức) có giống nhau lồ lộ thì cũng dễ
hiểu thôi. Thí dụ, mang máng nghĩa với câu Vặt đầu cá vá đầu tôm của chúng ta
là các câu Découvrir Saint Pierre pour couvrir Saint Paul (Pháp: lột quần
áo thánh Pierre để mặc vào thánh Paul), Desnudar a un santo para vestir a otro
(Tây ban nha: lột quần áo một vị thánh để mặc vào một vị thánh khác), Rob
Peter to pay Paul (Anh: Cướp tiền Peter để trả Paul), và Dem
Peter nehmen und dem Paul geben (Đức: Lấy của Peter và đưa cho Paul).
VỀ NỘI DUNG TỤC NGỮ KHÁC GỐC
Vì lý do nói trên, người viết thấy thú vị hơn mỗi lần gặp các
câu tục ngữ tương đương giữa tiếng Việt và một ngoại ngữ không liên hệ họ
hàng gì với tiếng Việt cả (thí dụ như tiếng Anh trong trường hợp này), như
các cặp tục ngữ Được đằng chân lân đằng đầu và Give him an inch and he will take
a mile (Cho hắn một tấc thì hắn đòi một dặm); Gieo gió gặt bão và Sow
the wind and reap the whirlwind (Gieo gió gặt gió lốc); Lắm
thầy thối ma và Too many cooks spoil the broth (Quá
nhiều người nấu bếp thì hư nồi canh); và Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm
và The
pot calling the kettle black (Cái nồi mà chê cái ấm đen).
Too many cooks spoil the broth
VỀ MỘT NẾP SỐNG ĐẠO ĐỨC
Trong số các tục ngữ được coi như châm ngôn cho một nếp sống
đạo đức, tiếng Việt có câu Khôn ngoan chẳng ngoại thật thà để
nhắc nhở người đời tránh xa sự lươn lẹo. Nội dung châm ngôn này được diễn tả bộc
trực hơn trong tiếng Anh qua câu Honesty is the best policy (Lương
thiện là chính sách tốt nhất).
Ý nghĩa câu Gần mực thì đen gần đèn thì sáng thì
quá rõ rệt. Câu này chắc là do các cụ nhà nho khi xưa đã chuyển ngữ thật sát
nghĩa từ câu chữ Hán Cận mặc giả hắc cận đăng tắc minh (近 墨 者 黑 近 燈 則 明). Những kẻ chỉ thích “gần mực” hoặc “cận mặc” thôi thì sẽ liên kết thành một
bầy để cùng nhau làm những chuyện không hay, như được ám chỉ trong câu tục ngữ
Hán-Việt đã hoàn toàn Việt hóa Ngưu tầm ngưu mã tầm mã (牛 尋 牛 馬 尋 馬)
(Trâu tìm trâu ngựa tìm ngựa), và trong các câu Birds of a feather flock together
(Anh:
Chim cùng thứ lông tụ tập thành bầy), Dis-moi qui tu hantes et je te dirai qui tu
es (Pháp: Nói tôi nghe anh giao du với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là
loại người nào), Cada cual con los suyos (Tây ban nha: Kẻ nào đi với phường nấy),
Gleich
und gleich gesellt sich gern (Đức: Hai loại giống nhau kết hợp dễ
dàng), và Dio li fa e poi li appaia (Ý: Thượng đế sinh ra họ rồi kết họ với
nhau).
VỀ MỘT NẾP SỐNG KHÔN NGOAN
Các tiểu nhân dễ đắc chí và mỗi khi đắc chí họ cười lâu
lắm cốt để kéo dài nỗi đau lòng của người bị họ cười chê. Tiếng Việt dành
cho những kẻ có đầu óc nhỏ mọn ấy lời nhắc nhở Cười người chớ vội cười lâu, cười
người hôm trước hôm sau người cười. Trong vài ngôn ngữ khác, lời khuyên
ấy ngắn gọn hơn và cũng đều dành thắng lợi cho người cười sau cùng: He
laughs best who laughs last (Anh: người đáng được cười nhất là người cười
sau cùng), và Rira bien qui rira le dernier (Pháp: người sẽ cười xứng đáng là
người sẽ cười sau chót).
Nói năng bừa bãi dễ gây ra “vạ miệng” vì Tai
vách mạch rừng, hoặc Las paredes oyen (Tây ban nha: Những
bức tường biết nghe), hoặc những câu sau đây mà ý nghĩa đều là tường có tai:
Walls
have ears (Anh), Les murs ont des oreilles (Pháp), Die
Waende haben Ohren (Đức), Cách tường hữu nhĩ (隔
墻 有 耳) (Hán).
Walls have ears
Tránh voi chẳng xấu mặt nào là lời cổ nhân khuyên ta nên làm mỗi
khi bị kẻ vũ phu đe dọa tấn công. Nếu tiếng Việt ví kẻ vũ phu như voi
thì tiếng Tây ban nha ví hắn như bò mộng hoặc kẻ khùng điên, như
trong câu Al loco y al toro darles corro (Với kẻ khùng điên và bò mộng,
hãy nhường chỗ ngay).
Người Việt khôn ngoan ít khi Thả mồi bắt bóng vì họ biết
rõ Một
con trong tay hơn mười con bay trên trời. Người phương tây cũng diễn tả sự khôn ngoan
đó một cách dễ hiểu, như câu trong tiếng Anh A bird in the hand is worth two
in the bush (Một chim trong tay đáng hai chim trong bụi), hoặc như câu
trong tiếng Ý Meglio un uovo oggi che una gallina domani (Một trái trứng hôm
nay tốt hơn một gà mái ngày mai), hoặc như câu thi vị hơn trong tiếng Đức Ein
Spatz in der Hand ist besser als eine Taube auf dem Dach (Một chim sẻ
trong tay tốt hơn một bồ câu trên nóc nhà).
A bird in the hand is worth two in the bush
Trong một cuộc tranh chấp, kẻ có tiền thường có nhiều
lợi điểm, vì Nén bạc đâm toạc tờ giấy, cũng như Đa kim ngân phá luật lệ (多 金 銀 破 律 例)
(Hán: Nhiều tiền bạc phá tan luật lệ) và Money talks (Anh: Nhờ tiền
bạc nói dùm).
Thường thường Sự thật mất lòng, một ý niệm được
gói ghém bộc trực trong câu Truth hurts (Anh: Sự thật làm đau
lòng) cũng như trong câu khuyên răn tế nhị Toute vérité n’est pas bonne à dire
(Pháp: Không phải sự thực nào cũng nên nói ra đâu). Vì Lời nói chẳng mất tiền mua,
người khôn ngoan phải Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Châm ngôn dành cho những ai ăn nói vụng về để mất lòng người khác một
cách vô tích sự này tương ứng với câu Cortesía de boca vale mucho y poco cuesta
(Tây ban nha: Sự nhã nhặn bằng miệng có nhiều giá trị và chẳng tốn bao nhiêu).
Cá lớn nuốt cá bé mô tả một lối sống tàn nhẫn trong xã hội
ngày nay, khi biết bao công ty nhỏ đang bị các công ty lớn hơn ăn sống nuốt
tươi trong một thế giới mà người Mỹ tả chân là dog-eat-dog. Trong cái thế
giới đáng sợ ấy, mọi liên hệ phải có đi có lại thì mối giao tình mới
bền, theo châm ngôn Bánh ít đi, bánh quy lại của người
Việt hay châm ngôn You scratch my back, I will scratch yours (Anh gãi lưng tôi,
tôi sẽ gãi lưng anh) của người Mỹ.
Khi đã bị nạn một lần rồi thì người ta trở nên sợ bóng sợ
gió, thấy cái gì na ná với nguyên nhân gây ra tai nạn cũ thì vội lánh xa.
Đó là điều câu Đạp vỏ dưa thấy vỏ dừa cũng sợ hàm ý trong tiếng Việt. Người
Tàu diễn tả sự sợ bóng sợ gió ấy bằng câu tục ngữ nghe như thơ Kinh
cung chi điểu kiến khúc mộc nhi cao phi (驚 弓 之 鳥 見 曲 木 而 高 飛) (Con chim sợ cây cung thấy khúc
cây cong thì vội bay cao), trong khi các ngôn ngữ tây phương sử dụng nội dung cụ
thể hơn, như Once bitten, twice shy (Anh: Một lần bị cắn, hai lần nhát), Chat
échaudé craint l’eau froide (Pháp: Mèo từng bị phỏng sợ cả nước lạnh), Gato
escaldado del agua fría huye (Tây ban nha: Mèo bị bỏng chạy xa nước lạnh),
Gebrannte
Kinder scheuen das Feuer (Đức: Trẻ nít từng bị phỏng thì tránh né lửa).
Lạc quan là một niềm tin lành mạnh. Thực vậy, cuộc
đời này không hẳn lúc nào cũng xấu đâu, vì Sau cơn mưa trời lại sáng, một mối lạc
quan được diễn tả qua câu chữ Hán Khổ tận cam lai (苦 盡 甘 來) (Hết đắng thì đến ngọt), câu tiếng
Pháp Après
la pluie le beau temps (Sau cơn mưa trời sẽ đẹp), và câu tiếng Anh After
a storm comes a calm (Sau trận bão yên tĩnh trở lại).
Khi “trời lại sáng” và cho ta một cơ hội, ta đừng để mất
cơ hội ấy. Đó là lời nhắn nhủ của câu Cờ đến tay phải phất cũng như của
câu tiếng Anh Strike while the iron is hot (Hãy đập khi thỏi sắt đang nóng) và
câu tiếng Pháp Il faut battre le fer quand il est rouge (Phải đập thỏi sắt khi
nó đang đỏ). Nhưng khi “phất cờ” hoặc “đập thỏi sắt đang nóng đỏ” ấy, ta chớ
quên rằng tinh thần hợp tác là điều không thể thiếu, vì Một
cây làm chẳng nên non. Câu này mang ý nghĩa thật gần với các câu Cô thụ
bất thành lâm (孤 樹 不成 林) (Một cây không thể thành rừng)
trong tiếng Hán, cũng như Une hirondelle ne fait pas le printemps
(Một con én chẳng làm nên mùa xuân) trong tiếng Pháp.
ĐÀM TRUNG PHÁP
Sưu tầm và trình bày minh họa: Ngọc Dung.
Phụ lục: thư độc giả
Kính thưa thầy,
Lâu quá em không viết
thư thăm thầy nên bây giờ em phải tự giới thiệu lại với thầy, em là Thu Hà, hồi
xưa học với thầy ở DHSP đệ nhị cấp 1970-1973, cùng lớp với Tân Minh và bây giờ
đang ở Berlin.
Em vừa nhận được qua một
người chị họ bài viết của thầy về việc chêm tiếng Mỹ vào tiếng Việt. Em
vừa đọc vừa nghĩ đến vấn đề chêm tiếng này của người Việt mình có lẽ ở mọi nước
trên thế giới. Vì thế em phải viết để kể thầy nghe chuyện nầy bên Đức.
Người Việt mình ở đây
cũng rất thích nói chêm tiếng Đức vào câu tiếng Việt. Ngay cả những người hầu
như không biết một chữ tiếng Đức lại cũng thích nói chêm vào. Ở đây có một điều
buồn cười là có khi người nói chêm không biết nguyên từ tiếng Đức và chỉ chêm
vào một nửa từ thôi! Do em làm interpreter cho tòa án nên thường tiếp xúc với
tội phạm người Việt.
Hầu hết họ đều là những
người từ ngoài Bắc hay vùng Thanh Nghệ Tĩnh chạy sang đây xin tỵ nạn nhưng tất
cả đều vì lý do kinh tế mà sang đây. Họ cố kiếm ít tiền bằng những công việc
thường là bất hợp pháp như buôn lậu, ăn cắp v..v và chỉ nói được broken German
thôi. Ban đầu thì có khi em không hiểu họ nói gì nhưng dần dần cũng
"thông" và bọn thông dịch viên tụi em có khi lại bắt chước nói như
họ.
Em cứ nhớ hồi xưa thầy
Nguyễn Văn Lương cứ hay nói "nhân chi sơ tính vốn lười" Câu này chắc
áp dụng được vào trường hợp nói tắt chêm tiếng Đức (hay đúng hơn chêm nửa tiếng
Đức) vào câu tiêng Việt của nhiều người Việt ở Đức.
Họ hay nói" hôm nay
tôi phải đi "um" tàu. Nghe rất lạ. Trong tiếng Đức không có chữ
"um" như là verb. Té ra họ nói tắt chữ "umsteigen":
đổi tầu. Vì đây là một động từ separable verb với "um" và
"steigen" mà họ chỉ chêm vào phần prefix "um" thôi.
Rồi lại còn: " Chị
kia được "un" rồi sau khi được giấy phép cư trú hai năm".
Ý họ muốn nói là chị nọ
được giấy phép cư trú vô thời hạn (unbefristet: unlimited as to time). Nhưng họ
cũng chỉ nói phần prefix "un" mà thôi. Người nào nghe không quen thì
chắc không hiểu được vì nhiều từ có prefix "un" lắm, không đoán được
họ nói "un" cái gì!
Hay thay vì nói
Kaufhalle (markethall) thì họ chỉ nói " đi mua gạo ngoài "Kauf".
Mà chữ Kauf đứng một mình thì lại có nghĩa buy/buying thôi.
Còn nhiều từ chêm rất
buồn cười mà bây giờ em không nhớ ngay được. Em nghĩ trong trường hợp của những
người ít học này thì họ không thuộc vào trường hợp những người nói thông thạo
hai ngôn ngữ mà chắc chỉ vì có khi họ không biết cả tiếng Việt gọi Kaufhalle là
gì nên họ nói tắt thành "Kauf" cho tiện! Nhưng rất buồn cười khi nghe
họ nói như thế.
Em cũng vừa nhận được
một cái mail của một đứa em bên Pháp viết "Les photos vraiment
vraiment precieuses, anhThi nghi lai la vie nhu mot ngon gio
!!"
Hôm nào thầy viết thêm
một bài về việc chêm tiếng Pháp, chắc chắc rất hay.
Em xin ngừng ở đây và
xin chúc thầy cô mọi việc an lành, như ý.
Em
Thu Hà, Berlin
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét