Đang có một
khả năng mà theo một số đánh giá – có thể lên đến 60-70% – để Quốc Hội Việt Nam
bỏ phiếu thông qua Luật Về Hội vào cuối năm 2016.
Khi thời gian
năm 2016 đang trôi về những tháng cuối cùng và chẳng mấy ai còn thấy tăm hơi của
một thứ “nợ dân” – Luật Về Hội – đâu, ngày 22 Tháng Chín, Ủy Ban Thường Vụ Quốc
Hội “bất ngờ” cho ý kiến vào dự thảo Luật Về Hội. Hết cuộc họp này, Chủ Tịch Quốc
Hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng “bất ngờ” cho rằng dự thảo Luật Về Hội đã đủ điều
kiện để trình ra Quốc Hội thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai vào Tháng Mười.
Thậm
chí, bà Ngân còn nhắc lại một giai điệu quá nhàm cũ của nhiều lãnh đạo “không để
nợ dân lâu hơn nữa.”
Vì sao lại
quay ngoắt như thế?
Tâm lý và tâm
thế của giới lãnh đạo Việt Nam là nợ quá nhiều, nợ như chúa chổm, lúc nào cũng
như sắp vỡ nợ, khó đoán định và quá khó lường, đặc biệt liên quan thiết thân đến
những quyền dân như quyền tự do lập hội.
Một phần nữa
là bởi vì điều mà giới lãnh đạo luôn ra rả về “món nợ với dân” thực ra đã kéo
dài suốt từ Hiến Pháp năm 1992, tức suýt soát một phần tư thế kỷ.
Cũng bởi hai
phạm trù mà đảng cầm quyền vô cùng thất hứa và luôn bị ám ảnh về triển vọng “lật
đổ chế độ” là quyền tự do lập hội và quyền tự do biểu tình.
Không trấn
áp được bằng vũ lực thì áp chế bằng luật
Chỉ từ năm
2013, dự thảo Luật Về Hội mới được một số quan chức nhắc đến, tiếp sau tiến
trình “bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ” được cụ thể hóa bằng chuyến thăm Hoa
Kỳ của nhân vật số hai trong đảng – Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang. Sau đó, cứ mỗi
năm, giới chức Quốc Hội từ ông Nguyễn Sinh Hùng đến ông Nguyễn Hạnh Phúc bên Quốc
Hội, ông Nguyễn Tấn Dũng bên chính phủ, lại nhắc lại hứa hẹn sẽ cho ra đời Luật
Lập Hội (đây là cái tên “nguyên thủy” của luật này) càng sớm càng tốt. Nhưng
trong khi người dân tiếp tục chờ dài cổ thì vẫn không thấy tăm hơi bóng dáng Luật
Về Hội ở đâu.
Mãi đến năm
2015, một bản dự thảo Luật Về Hội mới được chính quyền đưa ra để “lấy ý kiến rộng
rãi.” Tuy nhiên ngay từ bản nguyên sơ này đã bộc lộ chủ thế là đảng muốn “nắm”
hết, muốn tung ra luật để “quản” xã hội dân sự chứ không phải để chấp nhận thực
thể này.
Vào lúc này,
bất chấp chính quyền không chấp nhận, vẫn có đến gần 30 tổ chức xã hội dân sự độc
lập tự phát ra đời với một căn cứ pháp lý duy nhất: Hiến Pháp. Trong vài năm trời,
chính quyền và công an đã làm đủ cách và cũng thất bại đủ kiểu trong ý đồ tước
đoạt thực thể tự do lập hội còn trong trứng nước của người dân.
Không trấn áp
được bằng vũ lực thì áp chế bằng luật. Trong dự thảo Luật Về Hội, các quy định
mập mờ tại Điều 8 về các hành vi bị nghiêm cấm, các quy định tại Điều 9 về các
lĩnh vực hoạt động trùng lắp nhằm đặc biệt tạo ra vật cản lớn đối với các tổ chức
xã hội dân sự độc lập. Đây chính là những kẽ hở để nếu luật này được Quốc Hội
thông qua thì chính quyền sẽ công nhận các tổ chức quốc doanh trùng tên và
trùng lắp trong lĩnh vực hoạt động với các tổ chức xã hội dân sự độc lập, và
đương nhiên các tổ chức xã hội dân sự độc lập – khởi nguồn từ phong trào đấu
tranh cho dân chủ và nhân quyền – sẽ bị gạt thẳng cánh.
Những nội
dung tréo ngoe thể hiện ý chí độc tôn còn nước còn tát của đảng đã thậm chí
vang vọng đến cộng đồng quốc tế. Đến lúc này, nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế
phải viện dẫn Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà chính quyền
Việt Nam tham gia ký kết từ năm 1982 để chỉ trích về bản dự thảo Luật Về Hội của
Việt Nam là quá thiếu thành tâm.
Nhưng với nhiều
người dân trong nước thì bộc toạc hơn rất nhiều: Dự thảo Luật Về Hội đơn giản
là một trò ma mị.
Thế lực
chính trị “muốn thay đổi?”
Sự kiện quay
ngoắt đáng ngạc nhiên là tin tức “sắp thông qua Luật Về Hội” bất ngờ xuất hiện
vào gần cuối Tháng Chín, trong khi chỉ mới vào đầu tháng đó, lúc công bố chương
trình làm việc của Quốc Hội kỳ họp hai, không có thông tin cụ thể nào về dự thảo
Luật Về Hội sẽ được đưa ra để xem xét. Thậm chí còn có tin ngoài lề cho biết
cách đây không lâu chính bà Ngân là người “chống” Luật Về Hội.
“Nữ chủ tịch
Quốc Hội đầu tiên của Việt Nam” đang nghĩ gì? Phải chăng bà Ngân, trong một xúc
cảm bốc đồng và “trắc ẩn lòng dân,” đã tự “quyết” về Luật Về Hội?
Nhưng không
ai quên rằng chỉ mới vào Tháng Tám, chính bà là người ra tay bác Dự Luật Biểu
Tình với lý do “làm rối loạn đất nước.”
Chiều dài
chính trị của bà Ngân lại là độ thu ngắn đến mức tối thiểu về chính kiến, đặc
biệt từ khi làm phó chủ tịch Quốc Hội cho tới nay. Rất nhiều ý kiến cho rằng
trong những trường hợp đặc biệt, không phải “Ngân nói” mà là “đảng nói.”
Rất có thể
vào lần này, ứng với dự thảo Luật Về Hội, ý kiến trên một lần nữa là có cơ sở.
Đảng nói!
Nhưng khá
khác biệt với bối cảnh vài năm trước khi đảng chỉ chịu áp lực quốc tế về cải
cách thể chế với Luật Về Hội là một trong những trọng tâm yêu sách, gần đây có
thông tin cho biết rằng tỷ lệ “muốn thay đổi” trong đảng và cả trong Quốc Hội
đã lên đến 60%. Dù chưa có gì thể hiện tư tưởng “muốn cải cách” ở tỷ lệ này,
nhưng ngày càng có nhiều ủy viên trung ương và đại biểu quốc hội muốn tìm ra một
“lối thoát.” Thậm chí, một số trong tỷ lệ này đã trở nên một thế lực chính trị
ngầm ẩn. Chính áp lực số đông này khiến cho bộ phận thiểu số cực kỳ bảo thủ
trong đảng phải dao động rồi dần đổi ý.
Tất nhiên, luồng
thông tin và đánh giá trên chỉ mang tính tham khảo trong bối cảnh trong đảng hiện
xuất hiện nhiều, hoặc quá nhiều phe phái, và chẳng một cơ quan nào dám đưa đầu
chịu báng để làm một cuộc thăm dò, dù chỉ bỏ túi, về “theo Tàu còn đảng mất nước”
hay “theo Mỹ còn nước mất đảng” – cái nào trội hơn.
Lần này sẽ
“thành tâm” hơn?
Nhưng cần chú
ý, nếu cả những lý luận gia gạo cội và thường nặng tính bảo thủ của đảng như
ông Vũ Ngọc Hoàng, người từng giữ chức phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên
Giáo Trung Ương, và chỉ mới “nghỉ” gần đây – còn bắt đầu mấp mé nói về “tam quyền
phân lập” – một khái niệm của “tư bản giãy chết,” đồng thời chính thức viết
trên mặt công luận cụm từ “xã hội dân sự,” xem ra bản dự thảo Luật Về Hội lần
này có vẻ “thành tâm” hơn, dù chỉ đôi chút.
Một dấu hiệu
khác biểu hiện thái độ “thành tâm” chút đỉnh như thế là lần đầu tiên vai trò của
sáu tổ chức chính trị xã hội lớn nhất – vốn được coi là “cánh tay nối dài của đảng”
– đang trở nên lép vế chưa từng thấy. Đó là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội Nông
Dân Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt
Nam, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, và Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam.
Ngày càng có
nhiều ý kiến chuyên gia và cả quan chức yêu cầu đưa sáu tổ chức trên vào danh mục
bị điều chỉnh vì Luật Về Hội chứ không còn đặc quyền đặc lợi như trước đây. Nếu
yêu cầu này được hiện thực hóa, hệ quả đầu tiên là các tổ chức trên sẽ bị cắt
giảm mạnh kinh phí từ nguồn ngân sách.
Rất nhiều hội
đoàn nhà nước khác cũng bởi thế càng tràn trề cơ hội “đội nón ra đi” vì ngân
sách đã đến hồi trống rỗng.
Chỉ có các tổ
chức xã hội dân sự độc lập là chẳng có gì phải lo: Chưa bao giờ các tổ chức này
bị phụ thuộc vào nguồn ngân sách chính quyền, và cũng chưa bao giờ phải chịu sự
nô thuộc tư tưởng chính trị vào đảng cầm quyền.
P. C. D.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét