Phạm Ðình Trọng
Những thông tin xác thực từ thượng tá Tuấn, thượng tá Xuân, đại úy Điều, chuyện kể của trung úy, thuyền phó Nguyễn Hồng Sâm tàu 215 đã cho tôi hình dung được đầy đủ, chân thực trận đánh khó khăn, nhiều mất mát để giành Sihanoukville từ tay Khmer Đỏ.
Đêm 6.1.1979, mở màn chiến dịch đánh Sihanoukville bằng tiếng súng của đại đội đặc công đánh chiếm trận địa pháo bảo vệ bờ biển của Khmer Đỏ và tiếng nổ của pháo 130 nòng dài từ bắc đảo Phú Quốc bắn sang những căn cứ Khmer Đỏ ở Kampong Som. Ngoài biển, lực lượng tàu chiến đấu tạo thành vành đai ngăn chặn tàu Khmer Đỏ từ quân cảng Ream, từ cảng Sihanoukville đánh ra, bảo vệ bãi đổ quân của lữ đoàn 126 và lữ đoàn 101 lính thủy đánh bộ. Tàu 215 và tàu 203 chốt chặn hướng chủ yếu. Tàu 199 và tàu 613 còn là đài trinh sát pháo binh, quan sát điểm rơi của đạn pháo để trận địa pháo trên đảo Phú Quốc điều chỉnh tầm bắn. Tàu HQ05 chốt ở ngoài cùng.
Sự cố
xảy ra khi mới đổ được ba tiểu đoàn lính thủy đánh
bộ cùng một số xe tăng, xe lội nước lên chân núi
Bokor thì nước triều lên ngập bãi đổ quân, tàu đổ
quân đành rút ra. Còn lữ đoàn 101, ba tiểu đoàn của lữ
đoàn 126 và số lớn xe, pháo, ô tô chở quân chưa lên
được.
Cuộc đổ
quân đang diễn ra thì cuộc đụng độ trên biển bắt
đầu. 22 giờ 30, kì hạm 203 chỉ thị mục tiêu và tàu
215 cũng phát hiện bốn tàu Khmer Đỏ từ hướng quân
cảng Ream lao đến. Nhìn hướng tiến, biết chúng có ý
định đột phá vào khoảng giữa tàu 215 và kì hạm 203
để vào bãi đổ bộ của lực lượng lính thủy đánh
bộ Việt Nam. Đến cự li tầm bắn có hiệu quả, chiếc
đi đầu xối xả nã đạn về phía tàu 215 và tàu 203. Kì
hạm 203 lệnh cho tàu 215 di chuyển để lưới lửa của
tàu 203 và tàu 215 đan chéo cánh xẻ vào chiếc tàu Khmer
Đỏ đi đầu. Một loạt đạn 37 li của tàu 215 quất
trúng mục tiêu, chiếc tàu Khmer Đỏ chạy chậm lại và
không ổn định hướng rồi chìm nghỉm. Ba chiếc còn lại
quay đầu tháo chạy.
Gần sáng
ngày 7.1.1979, nhiều tiếng nổ dữ dội ở hướng tàu
HQ05 chốt chặn. Kì hạm 203 lệnh cho tàu 215 cùng tiến về
phía tiếng súng. Trời sáng rõ, tàu 215 nhận ra bốn tàu
100 tấn cao tốc của Khmer Đỏ quây đánh tàu HQ05. Tàu
cao tốc của Khmer Đỏ có tốc độ 38 hải lí giờ, gần
gấp đôi tốc độ tàu HQ05 của Việt Nam chỉ 20 hải lí
giờ. Tàu 215 và 203 cùng nổ súng thu hút tàu Khmer Đỏ.
Bị đánh trả từ hai hướng, tàu Khmer Đỏ không còn ở
thế chủ động tấn công, tốc độ cao không còn là ưu
thế nữa. Bây giờ hỏa lực sẽ quyết định mà hỏa
lực thì các tàu Hải quân Việt Nam áp đảo. Hai tàu
Khmer Đỏ bị trúng đạn bỏ chạy, hai chiếc còn lại
phải chạy theo. Kì hạm 203 lệnh cho 215 truy kích. Đang
tăng tốc đuổi theo chiếc tàu Khmer Đỏ dính đạn chạy
sau thì tàu 215 chết máy khựng lại. Lập tức, hai tàu
Khmer Đỏ quay lại quây đánh tàu 215. Khi tàu 203 giải
cứu, đánh đuổi tàu Khmer Đỏ thì tàu 215 đã bị thương
tích nặng nề. Hai pháo thủ của khẩu 37 li, một hàng
hải và một cơ điện hi sinh. Thuyền trưởng Nguyễn
Thiện Doanh, thuyền phó Đỗ Văn Thành, chính trị viên Lê
Đình Khuyến, hai cơ điện Tạ Văn Chương, Lê Hồng Quyên
bị thương nặng.
Nhưng
thương vong nặng nhất lại là cuộc chiến trên đất
bằng. Ba tiểu đoàn của lữ đoàn 126 cùng một phần sở
chỉ huy lữ đoàn vừa đổ bộ lên chân núi Bokor, chưa
kịp tập hợp đội hình thì pháo Khmer Đỏ dập xuống.
Từ trong bóng đêm của dải rừng bao quanh, những tên
lính áo đen của man rợ, của chết chóc, như từ bóng
đêm trung cổ ào ra. Thiếu tá tham mưu trưởng lữ đoàn,
đại úy trưởng ban tác chiến, trung úy Vũ Hiến phóng
viên báo Hải
quân hi
sinh. Cả tổ đài thông tin vô tuyến điện của sở chỉ
huy đều bị thương vong. Thượng tá Luật chính ủy lữ
đoàn 126 bị thương được những người lính thân cận
bên ông dìu chạy vào rừng.
Trong tình
thế nếu cứ chôn chân ở chân núi Bokor đợi đổ xong
quân, đợi xe pháo, đợi có chỉ huy thì sẽ là tấm bia
sống cho những nòng súng Khmer Đỏ, vì thế rạng sáng
ngày 7.1.1979, một tiểu đoàn trưởng của lữ đoàn 126
đã đưa quân lên 12 xe tăng và xe bọc thép đơn độc
tiến đánh Sihanoukville. Một ngày một đêm chiến đấu,
chỉ còn vài người sống sót chạy vào rừng, tiểu đoàn
bị xóa sổ.
Theo
phương án tác chiến, lực lượng mạnh của hải quân
gồm lữ đoàn 126 và lữ đoàn 101 lính thủy đánh bộ từ
chân núi Bokor theo con đường số Ba ven biển đánh chiếm
Veal Renh rồi theo đường số Bốn đánh vào cảng
Sihanoukville và quân cảng Ream. Nay cuộc chiến đang quyết
liệt mà lực lượng Hải quân Việt Nam tham chiến vẫn
chưa đổ bộ xong quân mà lại phải chia lực lượng đi
tìm quân thương vong tan tác trong rừng, lại không còn nắm
thế chủ động nữa! Sư đoàn bộ binh 304 được tung vào
trận đánh Sihanoukville trong tình thế đó.
Trong đội
hình Quân đoàn 2 ở hướng thứ yếu, sư đoàn 304 là lực
lượng dự bị chiến dịch. Sư đoàn sẽ là lực lượng
đánh vào Phnom Penh trong đợt hai, đợt ba, nếu cuộc
chiến ở Phnom Penh phải kéo dài. Trước sức tấn công
của các sư đoàn thiện chiến Việt Nam, quân Khmer Đỏ ở
hướng phòng thủ phía Đông nhanh chóng vỡ trận, Quân
đoàn 4 Việt Nam tiến rất nhanh vào Phnom Penh. Ngày
7.1.1979 Quân đoàn 4 đã làm chủ Phnom Penh. Sư đoàn 304
liền được điều đi chi viện cho mặt trận Kampong Saom.
Ngày 8.1.1979 trung đoàn bộ binh 9 cùng lữ đoàn xe tăng
203 giải phóng Ream. Ngày 9.1.1979, trung đoàn bộ binh 66
cùng với Hải quân đánh chiếm xong Sihanoukville. Ngày hôm
sau, 10.1.1979, chiếc xe jeep của trung đoàn 66 đã đưa tôi
từ Sihanoukville lên sở chỉ huy sư đoàn 304 ở thị xã
Kampong Saom.
Hai ông
bạn họa sĩ cùng đi chiến dịch với tôi đã về Sài
Gòn trước rồi. Tối 30.1.1979, tôi đeo ba lô xuống tàu
683 khi những người lính vẫn đang hối hả chuyển những
hòm đạn từ tàu lên cảng. Bốc hết đạn lúc nào, tàu
sẽ nhổ neo về Sài Gòn lúc đó. Đến nửa đêm, còn gần
100 tấn đạn dưới tàu nhưng tàu được lệnh dừng bốc
đạn để đưa thi thể thượng tá chính ủy Luật về
nước ngay trong đêm. Thi thể thượng tá Luật cùng thi
thể hai chiến sĩ được bọc trong nhiều lớp túi ni lông
đặt ở mũi tàu. 1 giờ 30 đêm, tàu rời cảng
Sihanoukville. Chiều hôm trước, 29.1.1979, mũi xục xạo
trong rừng của trung tá Trịch tìm thấy nhóm người đi
với thượng tá Luật nhưng thượng tá Luật đã chết
trước đó mười ngày, từ ngày 19.1.1979.
Tàu không
về Sài Gòn mà về Phú Quốc. Nằm trong buồng hàng hải
trên tàu, tôi đã thức trọn đêm. Gió biển ù ù vật vã
thổi vào căn buồng hẹp tôi nằm đưa tôi trở về với
tiếng gió ù ù thổi trong câu thơ Chinh
phụ ngâm, ù
ù thổi trong lịch sử Việt Nam:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi / Mặt chinh phu trăng dõi dõi
soi. Tự
nhiên tôi thấy cay cay nơi sống mũi và nước mắt lấp
xấp ướt mi. Những người lính Việt Nam thời Chinh
phụ ngâm đổ
máu để giữ gìn mảnh đất Việt Nam yêu thương. Những
người lính Việt Nam hôm nay còn đổ máu vì sự bình yên
của cây thốt nốt, vì những giá trị của sử thi đá
thăm thẳm ở đền đài Angkor.
Mờ sáng,
tôi lại nhìn thấy cảng An Thới nhưng không thấy con tàu
215 thương tích đầy mình ở cầu cảng nữa. Ba người
lính hi sinh được đưa lên bờ khâm liệm nhưng chỉ có
thượng tá Luật trong chiếc quan tài mộc không sơn vẽ,
còn tươi màu gỗ rừng Phú Quốc cùng về Sài Gòn với
chúng tôi trong chuyến máy bay lên thẳng bay từ sân bay dã
chiến An Thới về sân bay Tân Sơn Nhất.
3.
Thương thân cây, thương phận người
Chân tôi
thong thả đi dạo trên đường phố Phnom Penh mà tâm tưởng
tôi bồi hồi đi dạo trong kí ức về những năm tháng
cuộc đời tôi để lại ở đất nước này. Ở tuổi
ngoài sáu mươi tìm về tuổi ngoài hai mươi để nhận ra
nhiều điều trước đây chưa thể nhận ra. Ở nơi xứ
người nhớ về một thời lịch sử nghiệt ngã của đất
nước mình để cứ phải ngậm ngùi liên tưởng chuyện
xứ người, chuyện xứ mình.
Phụ
trách một cụm đài vô tuyến điện thuộc Bộ Tư lệnh
mặt trận Tây Nguyên thời chiến tranh Việt Nam, tôi đã
nhiều lần qua lại mảnh đất đông bắc Campuchia, vùng
Mondolkiri, Katanakiri, Stung Treng, nhiều lần tắm sông
Serepok, sông Sesan, những dòng sông khởi nguồn từ dãy
Trường Sơn, chảy về phía tây, đổ nước vào sông
Mekong, hàng ngày uống nước những dòng suối đầu nguồn
của sông Serepok, sông Sesan. Nhiều sáng thức dậy ra sông
Serepok thấy cá nổi phơi bụng trắng xóa dạt vào mép
nước trên khúc sông dài hàng trăm mét. Nhìn cá chết
biết được mức độ bom Mĩ đánh phá những bến sông
trên thượng nguồn đêm trước. Sau chuyến theo tàu Hải
quân đi từ đảo Phú Quốc đến cảng Sihanoukville, tôi
lại có chuyến ngồi xe ca quân sự của Cục Vận tải,
Tổng cục Hậu cần xuất phát từ đường Ngô Quyền,
quận Năm, Sài Gòn đến Phnom Penh.
Tôi đã
sống với đất nước Campuchia cả những ngày bom đạn,
cả những ngày bình yên nhưng những kỉ niệm sâu sắc
nhất của tôi về đất nước của những cây thốt nốt
hiền hòa đều là những kỉ niệm không bao giờ phai mờ
về những ngày chiến tranh khốc liệt vậy mà đất nước
này vẫn để lại cho tôi cảm giác về sự hiền hòa,
bình yên. Những can qua máu lửa đều từ bên ngoài đưa
đến cho người dân Khmer hiền lành, hồn hậu, cởi mở,
giàu lòng yêu thương. Thời Việt Nam mịt mù bom đạn,
những người lính chúng tôi phải dạt sang nương náu
dưới những cánh rừng đông bắc Campuchia cũng là nương
náu trong sự hồn hậu, cởi mở đó.
Định
mệnh đã đưa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia chậm chân
trên con đường phát triển cùng chung số phận là thuộc
địa của nước Pháp phát triển. Số phận chung đó đã
đưa những người đấu tranh giành độc lập của hai dân
tộc Việt Nam và Campuchia đến với nhau và cùng lạc vào
chủ nghĩa cộng sản thời chủ nghĩa cộng sản như hi
vọng, như mở ra cánh cửa đến thiên đường tưởng là
có thật của loài người khổ đau. Những người đấu
tranh giành độc lập cho Campuchia bị Pháp bắt giam chung
với những người cộng sản Việt Nam trong nhà tù khắc
nghiệt Côn Đảo đã tiếp thu lí thuyết cộng sản đầy
hấp dẫn: xóa bỏ bất công và bóc lột, qua những người
cộng sản Việt Nam và họ là những người Campuchia hiếm
hoi đầu tiên trở thành những đảng viên Đảng Cộng
sản Đông Dương.
Đầu năm
1951, trong rừng Việt Bắc, những người cộng sản Việt
Nam đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng
Lao động Việt Nam thì tháng Chín, năm đó, những người
cộng sản Campuchia thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng
Khmer và nhà sư Achar Mean, còn có tên là Sơn Ngọc Minh,
trở thành Chủ tịch đảng. Ở Việt Nam đã có vài cơ
sở công nghiệp sơ khai, vài mỏ than, vài xưởng dệt,
xưởng cơ khí sửa chữa, tạo ra một đội ngũ thợ
thuyền nhỏ bé, nghèo khổ thì Đảng Lao động Việt Nam
tự nhận là đảng tiền phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Campuchia chưa có cơ sở công nghiệp,
chưa có bóng dáng đội ngũ công nhân nhưng theo “bài văn
mẫu” là Cương lĩnh Đảng Lao động Việt Nam, Cương
lĩnh Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer cũng tuyên xưng: Đảng
không phải là đảng tiên phong của giai cấp công nhân
nhưng là đảng tiên phong của những người yêu nước và
tiến bộ.
Nhưng
những người cộng sản Khmer còn quá ít ỏi lại từ
những nguồn khác biệt nhau, mang tư tưởng, hướng nhìn
khác nhau, nguồn sư sãi, trí thức trong nước, nguồn đi
học từ nước ngoài trở về, tạo thành những nhóm,
những vùng hoạt động khác nhau, không có sự phối hợp,
kết nối, chia sẻ, tổ chức cộng sản Khmer chưa trở
thành một lực lượng chính trị của xã hội Campuchia.
Vì thế Hiệp định Genève năm 1954 đã dành cho những
người cộng sản Việt Nam nửa đất nước ở miền Bắc,
những người cộng sản Lào được hai tỉnh Sầm Nưa và
Phong Sa Ly, còn những người cộng sản Campuchia thì trắng
tay, không thước đất đứng chân. Chủ tịch đảng Sơn
Ngọc Minh cùng đội quân vũ trang nhỏ bé của ông có một
quá trình gắn bó với những người cộng sản Việt Nam
phải theo đội quân chống Pháp ở Nam Việt Nam tập kết
ra miền Bắc Việt Nam.
Số người
cộng sản Campuchia ở lại trong nước đều là những
người ở tầng lớp trên, phần lớn đều đã sang Pháp
học hành trở về như Saloth Sar, Ieng Sary… Sau này Saloth
Sar được gọi với tên Pol Pot nổi tiếng. Tư tưởng
không đồng điệu, số lượng đã ít ỏi, sau Hiệp định
Genève năm 1954 lại có những người quay đầu về với
chính quyền của nhà vua Norodom Sihanouk, hưởng bổng lộc
Hoàng gia. Số người còn lại phải tổ chức lại đảng.
Trong hai ngày cuối cùng của tháng Chín năm 1960, đại hội
thành lập Đảng Cộng sản Campuchia đưa Tou Samoth lên
Tổng Bí thư, Pol Pot, Ieng Sary đều trong nhóm nắm quyền
lực cao nhất của đảng là Ban Thường vụ. Năm 1963 Tổng
Bí thư Tou Samoth mất tích bí ẩn trên đường từ Hà Nội
trở về. Lập tức vị trí Tổng Bí thư đảng về tay
Pol Pot.
Với cớ
củng cố đảng, Pol Pot, Ieng Sary thúc giục Việt Nam đưa
Sơn Ngọc Minh sang Trung Hoa chữa căn bệnh mãn tính bình
thường mà nhiều người có tuổi vẫn mang là bệnh huyết
áp đôi lúc cao lên chút ít, để Sơn Ngọc Minh có sức
khỏe trở về Campuchia tham gia lãnh đạo Đảng Cộng sản
Campuchia. Nhưng ngày trở về Campuchia của người sáng lập
Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia Sơn Ngọc Minh không bao
giờ có! Sang Trung Hoa chỉ ít ngày sau Sơn Ngọc Minh phải
nhận cái chết âm thầm khi mới 52 tuổi, một cái chết
oan nghiệt như cái chết không tăm tích của Tổng Bí thư
Tou Samoth!
Từ đây,
những người lãnh đạo cộng sản Campuchia gần gũi, gắn
bó với Việt Nam đều lần lượt bị thủ tiêu, những
người đi với Sơn Ngọc Minh sớm muộn đều bị Pol Pot,
Ieng Sary giết hại. Vân Minh theo Sơn Ngọc Minh ra Hà Nội
được đi học trường điện ảnh thành nhà quay phim và
anh đã làm việc nhiều năm ở xưởng phim Quân đội Nhân
dân Việt Nam. Trong cao trào kháng chiến của lực lượng
Pol Pot được gọi là Khmer Đỏ chống lại chính quyền
Phnom Penh của Non Nol, Vân Minh trở về Campuchia tham gia
kháng chiến trong đội quân Khmer Đỏ nhưng khi Khmer Đỏ
giành được chính quyền, Vân Minh liền bị tống vào
ngục Tuol Sleng. Nhờ biết quay phim chụp ảnh, anh được
chúa ngục Khang Khek Ieu giao cho việc chụp ảnh những
người tù trước khi họ bị giết. Nhờ thế anh còn sống
sót và nhà ngục Tuol Sleng ngày nay còn bộ ảnh tố cáo
tội ác Khmer Đỏ.
Từ đây,
toàn bộ quyền lực Đảng Cộng sản Campuchia, quyền lực
Khmer Đỏ đã nằm gọn trong tay những người Khmer gốc
Hoa: Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, Nuon Chea, Ta Mok, Khang Khek
Ieu…
Với dòng
máu Trung Hoa trong người, với súng đạn Trung Hoa trong
tay, với tư tưởng Trung Hoa thời Mao Trạch Đông trong
nhận thức: Lấy nông thôn bao vây thành thị, lấy nông
dân tiêu diệt trí thức, tiêu diệt tư sản thành phố,
Pol Pot, Ieng Sary đã đưa dân tộc Campuchia vào địa ngục
tự hủy diệt. Hủy diệt dân tộc Campuchia. Hủy diệt
nền văn minh Angkor. Gieo thảm họa diệt chủng cho dân tộc
Campuchia đều là những người Campuchia, những thủ lĩnh
cộng sản Khmer và đội quân Khmer Đỏ mặc áo đen nhưng
họ chỉ là công cụ, là con rối dưới sự điều khiển
từ nước ngoài.
Là trung
đoàn phó quân Khmer Đỏ, Hun Sen nhận ra được bụng dạ,
đầu óc của lãnh đạo Khmer Đỏ, đó chính là bụng dạ,
đầu óc của những người làm Cách mạng Văn hóa ở
Trung Hoa. Khmer Đỏ chính là những người mang Cách mạng
Văn hóa ở Trung Hoa về thực hiện ở Campuchia nhưng ở
mức độ sâu rộng hơn, man rợ hơn, đẫm máu hơn. Cách
mạng Văn hóa ở Trung Hoa chỉ là cuộc thanh trừng nội
bộ trong giới lãnh đạo, trong bộ máy đảng và nhà
nước. Phe phái cầm quyền phát động sức mạnh quần
chúng diệt trừ phe phái khác. Khmer Đỏ ở Campuchia vừa
sắt máu thanh trừng nội bộ, vừa tàn bạo thanh trừng
cả dân tộc để dân tộc Khmer chỉ còn một loại người
là nông dân và xã hội Campuchia trở về thời cổ đại,
không trường học, không buôn bán, không chợ búa, không
tiền tệ. Với Khmer Đỏ, dân trí thức, dân công chức,
dân thành thị chỉ là loại người ăn bám vào giọt mồ
hôi của người nông dân, phải đưa loại người ăn bám
đó về nông thôn lao động cải tạo và loại bỏ, thủ
tiêu dần. Cả đất nước Campuchia hiền hòa trở thành
một trại cải tạo khổng lồ, một địa ngục thời
trung cổ, một cánh đồng chết mênh mông. Cái chết từng
giờ từng phút đến với người dân Campuchia hiền hậu
đang lao động khổ sai trên cánh đồng chết đó.
Hàng ngày
trung đoàn phó Hun Sen phải chứng kiến lũ lính trẻ mười
ba, mười bốn tuổi, mù chữ, vừa rời đồng ruộng cầm
khẩu súng trở thành lính Khmer Đỏ, thản nhiên dùng rìu,
dùng cuốc bổ xuống đầu người dân, say mê, thích thú
như một trò chơi. Dù giấu kín thái độ, tình cảm ghê
tởm tội ác Khmer Đỏ nhưng trung đoàn phó Hun Sen cũng
biết rằng cuộc thanh trừng nội bộ đẫm máu của Khmer
Đỏ sớm muộn cũng nhằm vào anh. Đã có nhiều chỉ huy
trung đoàn, sư đoàn đột ngột bị điều đi học, đi
công tác rồi mất tích luôn. Phải tìm đường cứu bản
thân và cứu nhân dân Campuchia, ngày 21, tháng sáu, năm
1977, Hun Sen chia tay người vợ trẻ Bun Rany đang mang thai
tháng thứ năm, chạy sang Việt Nam.
125 người
Campuchia cùng cảnh ngộ như Hun Sen gặp nhau ở Việt Nam
thành lập nên Đoàn 125, tổ chức ban đầu của lực
lượng vũ trang cứu nước Campuchia. Đoàn 125 do Hun Sen làm
chỉ huy trưởng là ý chí khao khát sống của dân tộc
Campuchia đã cất lên tiếng kêu cứu của dân tộc
Campuchia với loài người trước họa diệt chủng của
Khmer Đỏ, trước sự hủy diệt của Cách mạng Văn hóa
ở Campuchia. Việt Nam đã nuôi dưỡng, trang bị cho Đoàn
125. Việt Nam đã lắng nghe và đáp ứng tiếng kêu cứu
của dân tộc Campuchia, tiếng kêu cứu của nền văn minh
Angkor.
Cùng quân
đội Việt Nam, Hun Sen trở về quê hương giải phóng
Campuchia khỏi họa Khmer Đỏ diệt chủng khi Hor Namhong,
một quan chức ngoại giao của chính quyền Non Nol đang là
người tù của Khmer Đỏ đợi ngày nhận cái chết. Ngày
nay Hun Sen là Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Campuchia
và Hor Namhong là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao.
Không
phải chỉ có Hun Sen và Hor Namhong, tất cả những người
đang nắm giữ những vị trí trọng yếu trong Đảng Nhân
dân Campuchia cầm quyền, trong chính quyền nhà nước và
trong lực lượng vũ trang Campuchia đều có cảnh ngộ cuộc
đời, có xuất xứ như Thủ tướng Hun Sen và Phó Thủ
tướng Hor Namhong. Nhắc lại điều này để thấy rằng
trên thế giới ngày nay không có nhà nước nào, không có
nhân dân nước nào gắn bó máu thịt với nhân dân
Việt Nam, với đất nước Việt Nam như nhà nước và
nhân dân Campuchia hôm nay. Nhà nước đó đã ra đời, nhân
dân đất nước đó đã sống lại từ máu người lính
Việt Nam, từ sự nhường cơm, sẻ áo của nhân dân Việt
Nam. Nhắc lại điều này cũng không nhằm kể lể công
lênh của nhân dân Việt Nam với nhân dân Campuchia mà để
nhận ra tầm vóc, bản lĩnh, nhận ra tấm lòng của những
người lãnh đạo nhà nước Campuchia hôm nay với nhân
dân, với đất nước của họ.
Dù nhà
nước Campuchia hôm nay ra đời từ máu của những người
lính Việt Nam, dù nhà nước Campuchia hôm nay gắn bó và
biết ơn những người cộng sản Việt Nam thì nhà nước
Campuchia trước hết vẫn phải vì người dân Campuchia, vì
đất nước Campuchia, vì nền văn minh Angkor rực rỡ.
Vì nhân
dân Campuchia hiền hòa, vì đất nước Campuchia thanh bình,
từ năm 1991, những người lãnh đạo Campuchia đã đổi
tên đảng sôi sục cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng
Campuchia, thành Đảng Nhân dân Campuchia, một tên gọi bình
dị, quen thuộc, thân thiết với người dân Campuchia. Trả
cách mạng về với những tham vọng, những mưu đồ, nơi
đã mang can qua đến cho nhân dân Campuchia. Có một nhà
nước vì dân, nhân dân Campuchia hiền hòa không cần cách
mạng đổ máu, không cần đấu tranh giai cấp, phân chia
người dân hiền lành ra thành những giai cấp đối kháng,
đưa hận thù giai cấp vào cuộc sống bình yên.
Vì quyền
con người của nhân dân Campuchia, vì cuộc sống muôn màu,
muôn vẻ của đất nước Campuchia, từ năm 1993, những
người lãnh đạo Campuchia chấp nhận phần khó về mình,
chấp nhận cạnh tranh chính trị để cuộc sống phát
triển lành mạnh, từ đó Campuchia có đa đảng. 57 đảng
nói tiếng nói của 14 triệu dân, tiếng nói của tất cả
các khuynh hướng chính trị, của mọi trào lưu tư tưởng
nhưng số đông người dân Campuchia vẫn nhận ra Đảng
Nhân dân Campuchia với Chủ tịch đảng Chea Sim và Phó Chủ
tịch đảng Hun Sen là đảng của họ, đảng tồn tại vì
dân tộc, vì đất nước Campuchia nên họ đã dồn phiếu
bầu cho Đảng Nhân dân Campuchia trong những cuộc bầu cử
Quốc hội và cuộc bầu cử nào Đảng Nhân dân Campuchia
cũng giành được nhiều ghế nhất để trở thành đảng
cầm quyền. Dù đa đảng nhưng với người dân Campuchia
vẫn chỉ có một đảng, Đảng Nhân dân Campuchia. Được
cuộc sống chấp nhận, được nhân dân tin cậy, Đảng
Nhân dân Campuchia tồn tại tự nhiên, hài hòa cùng cuộc
sống thanh bình của nhân dân, của đất nước Campuchia,
không cần sự áp đặt của điều bốn Hiến pháp, không
cần đổ quá nhiều tiền thuế của dân ra nuôi đội
quân khổng lồ “công an nhân dân chỉ biết còn đảng
còn mình” bảo kê cho đảng.
Đảng
Nhân dân Campuchia cũng có cội nguồn từ Đảng Cộng sản
Đông Dương, cũng theo đuổi lí tưởng cộng sản của
học thuyết Marx – Lenin và định mệnh đã đưa những
người lãnh đạo Đảng Nhân dân Campuchia hôm nay có số
phận gắn bó máu thịt với những người cộng sản Việt
Nam. Nhưng họ không lú lẫn trói chặt số phận dân tộc
Campuchia vào học thuyết Marx – Lenin lầm lạc và tội
lỗi. Họ không vì ơn nghĩa mà mê muội đánh mất mình
để trở thành cái bóng của những người cộng sản
Việt Nam, để số phận dân tộc Campuchia trở nên bất
trắc, bấp bênh, bé bỏng, phụ thuộc vào nước khác như
số phận dân tộc Việt Nam bị Đảng Cộng sản Việt
Nam trói chặt vào học thuyết Marx – Lenin tai ương, như
Đảng Cộng sản Việt Nam bị cái bóng của Đảng Cộng
sản Trung Hoa trùm lên để đến nỗi phải cắt đất,
cắt biển dâng cho đế quốc Trung Hoa, nhục nhã phản bội
lại máu xương dựng nước của cha ông, nhu nhược, hèn
nhát bôi nhọ trang sử giữ nước hào hùng của cha ông,
để đến nỗi lính Trung Hoa tràn qua cả dải biên cương
vào đất Việt Nam giết hàng vạn dân Việt Nam, đưa tàu
chiến vào biển Việt Nam bắn giết cướp bóc dân Việt
Nam mà ở thủ đô Hà Nội lãnh đạo nhà nước Việt Nam
vẫn thành kính làm lễ rập đầu nhớ ơn quân giải
phóng nhân dân Trung Hoa!
Lang thang
trên đường phố Phnom Penh tôi chỉ thấy bảng hiệu buôn
bán, bảng chữ quảng cáo hàng hóa, không một khẩu hiệu,
không một pano hô hào, hò hét chính trị. Đường phố
thoáng đãng, nhẹ nhõm, thiên nhiên được phô bày hết
cái đặc sắc, cái dáng vẻ riêng của một vùng đất. Ở
thành phố Seam Reap tôi thấy hai hàng thốt nốt óng ả
trên đoạn phố san sát những khách sạn. Ông Toly nói
rằng cây thốt nốt là cây quí của Trời ban tặng cho
người Campuchia. Sáu tháng mùa mưa, nửa thân cây ngập
trong nước lũ, thốt nốt vẫn sống khỏe khoắn. Sáu
tháng mùa khô, không một giọt nước mưa, đất khô cháy,
cỏ cũng không sống nổi, phơi mình giữa cánh đồng
chang chang nắng đốt, cây thốt nốt vẫn xanh tươi. Hoa
thốt nốt vẫn nở và cây vẫn vặn mình vắt ra dòng
nước ngọt mát nuôi con người. Cây của Trời ban tặng
nên cây tự gieo hạt, tự nảy mầm mọc lên, không ai
trồng. Nhưng hai hàng thốt nốt thằng tắp, cách quãng
đều nhau trên đường phố ở Seam Reap thì rõ ràng do
người trồng.
Cây thốt
nốt mọc trên cánh đồng dáng gày guộc, nhọc nhằn vươn
lên cao, tán lá khô xác như cố thu nhỏ lại tránh cái
nắng đổ lửa. Cây thốt nốt mọc trên đường phố
Seam Reap dáng đậm đà, phổng phao, tán lá xanh tốt như
cố xòe rộng ra. Cây thốt nốt lặng lẽ trên cánh đồng
như dáng người đàn ông Khmer cởi trần, đen cháy, gân
guốc và bền bỉ với đất đai. Cây thốt nốt lao xao
gió trên đường phố Seam Reap như cô gái Khmer dịu dàng
trong tấm xà rông nền nã, duyên dáng. Nhìn cây thốt nốt
trên đường phố Seam Reap, nhìn cây phượng vĩ trên đường
phố Pnom Penh được thực sự là cây của đất trời,
được hồn nhiên khoe hết dáng uyển chuyển của cây,
được phô hết màu xanh mướt mát của sự sống, như cô
gái được kiêu hãnh khoe đường nét uyển chuyển của
cơ thể, được phô nhan sắc rực rỡ của tuổi thanh
xuân, tôi lại thương cho những hàng cây trên đường phố
Việt Nam chỉ là những cái trụ để gùi, để cõng những
pano, những bảng chữ xanh đỏ của chính trị, tán lá
xanh bị che lấp, bị lấn át bởi những dải khẩu hiệu
đỏ như máu, nóng bỏng như lửa, nhức nhối mắt nhìn.
Trên
những đường phố ở Việt Nam từ thủ đô nhốn nháo
đến những thị trấn miền núi heo hút nghèo xác xơ lúc
nào cũng ngờm ngợp cờ quạt, ngột ngạt pano khẩu hiệu
chính trị trống rỗng và giả dối, thô bạo, sỗ sàng
lấn át màu xanh lộng lẫy của thiên nhiên Việt Nam.
Những cờ quạt, pano, khẩu hiệu xanh đỏ lòe loẹt quá
nhiều như phấn son trát dày trên người gương mặt người
đàn bà tuổi xế chiều, đã không lấp liếm được sự
quá lứa lại phô bày thẩm mĩ thấp kém và tính cách
thiếu trung thực, đàng hoàng, chính chuyên. Lại chạnh
nhớ mùa hè năm trước tôi đến thành phố Hạ Long duyên
dáng bên vịnh biển đẹp nhất thế giới. Đang háo hức
ngắm nhìn thành phố non trẻ tầm nhìn của tôi bỗng
vướng phải dải vải đỏ căng giữa hai lùm cây xanh,
tầm mắt tôi bị chặn lại bởi những pano hình chữ
nhật dựng đứng bám trên thân cây, bám vào cột điện
giăng giăng hết phố này sang phố khác. Dải vải và pano
đều mang dòng chữ: Kiên
định chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa!
Vì chủ
nghĩa Marx – Lenin, nền kinh tế Việt Nam đã suy sụp,
nguy khốn và Việt Nam phải trở về nên kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa như thế nào, mọi người đều
biết. Vì chủ nghĩa Marx – Lenin, những người lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đã phải cắt đất đai xương máu
của cha ông người Việt cho đế quốc cộng sản Trung
Hoa như thế nào, mọi người đều biết. Nhưng chủ nghĩa
Marx – Lenin là liều doping kích động hận thù giai cấp,
là gốc rễ của mọi cuộc thanh trừng đẫm máu thì còn
ít người nhận ra.
Nhìn hàng
cây óng ả thanh thoát trên đường phố Seam Reap, trên
đường phố Phnom Penh, chạnh nhớ đến hàng cây trên
đường phố Việt Nam oằn mình mang tấm pano “Kiên định
chủ nghĩa Mac – Lê nin…“, tôi bỗng rùng mình. Người
dân không có quyền con người, cuộc sống không có dân
chủ, tự do tất sẽ xuất hiện bạo chúa độc tài và
bạo chúa độc tài phải tồn tại, phải khẳng định
quyền uy bằng bằng bạo lực thanh trừng. Thanh trừng
công khai như Cách mạng Văn hóa ở Trung Hoa, như Khmer Đỏ
diệt chủng ở Campuchia. Thanh trừng âm thầm như vụ Xét
lại Chống đảng, như vụ Nhân văn-Giai phẩm ở Việt
Nam. Và những vụ thanh trừng đẫm máu và nước mắt,
khi rầm rộ, khi âm thầm vẫn đang diễn ra triền miên ở
những nơi vẫn còn đang kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin!
Ôi chao! Nền kinh tế Campuchia chưa phát triển bằng nền
kinh tế Việt Nam, người dân Campuchia chưa giàu có hơn
người dân Việt Nam nhưng nhìn cây cỏ trên đất nước
Campuchia, nhìn người dân Campuchia, tôi cứ ngậm ngùi
thương phận mình, thương phận người dân Việt Nam đến
ứa nước mắt!
© 2012
pro&contra
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét